December 2015

Tác giả: Theo Ntdtv | Dịch giả: Tâm Nguyễn
25 Tháng Mười Một , 2015

Ảnh: Theo Ntdtv

Câu chuyện thứ nhất:

Có một khoảng thời gian người đệ tử cảm thấy cuộc sống sao mà thống khổ, thậm chí phiền não. Vị thiền sư dẫn người đệ tử đến một mảnh đất rộng mênh mông bốn bề không gian khoáng đãng, rồi hỏi: "Con hãy ngước nhìn lên phía trên đầu con, con nhìn thấy gì nào?". "Thiên không (Bầu trời)" Đệ tử đáp.

Vị thiền sư lại nói: "Bầu trời rất rộng lớn phải không? Nhưng ta lại có thể dùng một bàn tay che khuất được cả bầu trời đấy!"

Người đệ tử không nghĩ ra cách nào tin nổi. Chỉ nhìn theo vị thiền sư dùng một bàn tay và che kín lên hai mắt của đệ tử, rồi hỏi: "Con bây giờ có còn trông thấy bầu trời nữa không?"

Quảng cáo

Tiếp theo vị thiền sư hướng vào trọng điểm câu chuyện nói tiếp: "Trong cuộc sống, một chút thống khổ, một chút phiền não, một chút trở ngại cũng giống như bàn tay này, nhìn bàn tay thì thấy quả nhiên nó rất nhỏ, nhưng nếu không bỏ nó xuống, luôn cứ kéo nó lại gần mà nhìn, cứ mang nó đặt ở trước mắt mình, gác nó ở trong đầu và trong tâm tưởng, chính là sẽ giống như cái bàn tay này vậy, che khuất hết cả bầu trời thanh trong và quang đãng của chúng ta. Thế là, chúng ta sẽ bỏ lỡ mất ánh thái dương của cuộc đời, bỏ lỡ mất bầu trời màu xanh trong, lỡ nhịp những áng mây ngũ sắc cùng ráng mầu rực rỡ mỹ lệ."

Người đệ tử cuối cùng đã hiểu rõ căn nguyên gốc rễ nỗi thống khổ của mình.

Cảm ngộ: Đau khổ hay vui vẻ đều là do tự mình lựa chọn.

Ảnh: Theo Ntdtv

Câu chuyện thứ hai:

Người đệ tử vì không câu lệ, không chú ý đối với các tình tiết và các chi tiết nhỏ trong đối nhân xử thế, tự nhận thấy rằng những tình tiết nhỏ ấy không quan trọng, không liên can và đáng kể gì.

Một ngày, vị thiền sư hỏi đệ tử của mình: "Con có biết mưa rào và mưa bụi, loại mưa nào sẽ dễ dàng làm ướt quần áo của chúng ta không?"

"Đương nhiên là mưa rào rồi ạ!" Người đệ tử nhanh nhảu đáp.

"Nhưng mà trong cuộc sống, dễ dàng làm ướt quần áo người ta lại là mưa bụi chứ lại không phải mưa rào đâu." Vị thiền sư nói.

"Mưa rào hạt mưa nặng hạt, còn mưa bụi phất phất nhẹ bay, sao có thể dễ dàng làm ướt quần áo được ạ?" Người đệ tỏ vẻ khó hiểu.

"Bởi vì một khi nếu trời đổ mưa to, mọi người sẽ nhanh chóng cảnh giác hơn, người mang theo dù sẽ liền mở dù lên che mưa, người không mang theo dù sẽ liền trú mưa dưới những mái hiên. Nhưng nếu chỉ là mưa bụi, mọi người sẽ khó có cảm giác thấy ướt ngay, hoặc là có cảm thấy thì cũng không can chi, cho rằng chỉ lất phất vài hạt mưa nhỏ không đủ làm ướt quần áo, thế là họ cứ tự để mình đi trong mưa như thế, bất tri bất giác – như thể không hề hay biết, không hề cảm nhận thấy kẽ hở, cứ để hạt mưa lâm li thấm ướt hết cả quần áo."

Người đệ tử im lặng, đăm chiêu.

Vị thiền sư giảng: "Trong đối nhân sử thế, lời nói và cử chỉ của chúng ta ví như một cử chỉ của tay, một cái nhấc chân, một hành động biểu đạt tình cảm hay một câu nói…những điều này đều giống như hạt mưa bụi nhỏ bé kia, nhìn thì rất nhỏ, nhưng nếu không để tâm chú ý, không thận trọng cảnh giác sẽ trở thành sơ hở vô ý hay cố ý mà làm ướt 'quần áo' của người khác", tổn thương và phương hại người khác, đồng thời cũng là nguyên do 'ướt' sang cuộc đời của chính mình, khiến cuộc đời của mình phải chịu tối mờ, nan khó và tổn thất."

Người đệ tử cuối cùng đã thấu hiểu vì sao mưa bụi lại dễ dàng làm ướt được quần áo của mọi người, là bởi vì người ta đã buông lỏng cảnh giác đối với mưa bụi.

Cảm ngộ: "Vật dĩ thiện tiểu nhi bất vi, vật dĩ ác tiểu nhi vi chi" – Nghĩa là "Chớ thấy việc thiện nhỏ mà không làm, chớ thấy việc ác nhỏ mà phạm. "Vô lậu phương vi nhân sinh chi viên mãn" – đời người mà thực hiện tới được các phương đều vô lậu không rò rỉ, không kẽ hở ấy chính là đi đến cảnh giới của viên mãn.

Ảnh: Theo Ntdtv




Một thỏi Chanel chỉ có giá 36$, Tom Ford cũng chỉ 52$. Vậy thỏi Velvet Matte Lip của Christian Louboutin có gì khác biệt để có mức giá cao hơn hẳn như vậy?



Mới đây, ông hoàng giày đế đỏ Christian Louboutin đã cho ra mắt dòng son mới nhất với giá 90 USD/thỏi. Đây được coi là một lời thách thức tới những đối trọng khác trong làng thời trang và làm đẹp cao cấp như Chanel, Tom Ford, Lancôme hay Dior.

Với mức giá như trên, Louboutin thực sự đã khiến giới mộ điệu giật mình vì sự đắt đỏ của nó. Dòng son Chanel Rouge Allure huyền thoại làm mê mẩn phái nữ trên toàn thế giới bán với giá 36 - 40 USD tùy thị trường, Tom Ford nổi tiếng với những thỏi son mịn như nhung cũng chỉ có giá 52 USD hay Lancôme dù đã lâu đời cũng chỉ bán 30$ cho một sản phẩm của mình.

Christian Louboutin vốn chỉ là "tân binh" trong lĩnh vực làm đẹp, ông lấy đâu ra tự tin để cho ra mắt một sản phẩm xa xỉ như vậy?

Tạp chí thời trang danh tiếng Harpers Bazaar nhận xét: "Đây đích thực là thỏi son quyến rũ nhất trong lịch sử, xứng đáng là một tác phẩm nghệ thuật", đồng thời dành rất nhiều mỹ từ để miêu tả dòng son Velvet Matte Lip. Màu đỏ tự nhiên đậm chất Louboutin, cấu trúc lì nhưng óng ả và mềm mượt, sắc nét với 38 lựa chọn rực rỡ. Đặc biệt nhất là thiết kế gợi nhớ đến những chiếc giày cao gót lừng lẫy của thương hiệu này.

Dòng son có giá 90$ của Christian Louboutin

Phái đẹp trên toàn thế giới vốn đang tự hài lòng với những dòng son cao cấp nhưng sớm bị bão hòa bởi có thiết kế, màu sắc cũng như cảm giác na ná nhau. Điều này vừa khiến khách hàng có nhiều lựa chọn nhưng cũng dễ khiến họ nhàm chán.

Chính vì vậy, Christian Louboutin quyết định làm nên sự đột phá với sản phẩm xa xỉ hơn hẳn, không chỉ có chất lượng cao được chăm chút kĩ lưỡng mà còn có "chiến lược giá" đánh vào sự tò mò và tâm lý "tiền nào của nấy" của khách hàng - phần lớn trong ngành thời trang, giới trung và thượng lưu.

Một thỏi son 90 USD có khác thỏi 52 USD không? Khác chứ, nhất là khi nó có một vẻ ngoài bóng bẩy và nổi bật như thế này. Không chỉ tại Mỹ mà khắp nơi trên thế giới, phụ nữ đang khao khát đến cuồng nhiệt để có được sản phẩm mới nhất của hãng. Ngoài sự háo hức, khách hàng tin rằng chất lượng chắc chắn sẽ khác biệt. Hơn nữa, bất cứ một phụ nữ nào yêu thích son môi và có khả năng chi trả, trong hộp trang điểm của họ ít nhất phải có 1 thỏi Chanel và Tom Ford. Do đó, họ có thể chấp nhận từ bỏ 2-3 thỏi son kia để "tậu" cho mình 1 Louboutin.

Cùng những lời có cánh từ các chuyên trang làm đẹp và sự hậu thuẫn từ các fashionista, Christian Louboutin có đầy đủ lý do để làm nên chuyện với dòng son này, cạnh tranh trực tiếp với những "ông lớn" khác trong ngành thời trang cao cấp.

Vốn chỉ được biết đến nổi tiếng với giày cao gót, giờ đây thương hiệu này sẵn sàng phục vụ các nhu cầu làm đẹp khác của "thượng đế". Dòng son Velvet Matte Lip như một sự khởi đầu cho tham vọng nâng cao doanh thu cũng như vị thế của Christian Louboutin.

Quỳnh Anh
Theo Trí Thức Trẻ/Tổng hợp

Truyền thông xã hội (social media) và mạng xã hội không còn trong giai đoạn trứng nước. Với việc những kênh (platform) này tiếp tục phát triển nhanh chóng, chúng đã trở thành những mảnh ghép quan trọng của trải nghiệm trực tuyến và làm thay đổi cách thức các nhãn hàng tương tác với người tiêu dùng.

Nhưng sự thay đổi đó rộng và xa như thế nào? Dưới đây là một cái nhìn sâu hơn về việc truyền thông xã hội đã thay đổi tiếp thị ra sao cũng như các chiến dịch tiếp thị và quảng cáo đã tích hợp truyền thông xã hội như là một thành phần chủ chốt như thế nào.

Social Media đang phát triển rất nhanh chóng

Giao tiếp hai chiều

Nhãn hàng khăn tay và giấy vệ sinh Tempo đã chào đón phương tiện truyền thông xã hội đầu tiên với vòng tay rộng mở bằng cách tạo trang Facebook của mình vào năm 2011, khi đó chỉ có 300 người hâm mộ (fans). Nhưng đến nay, nó đã có gần 60,000 người ủng hộ. Gần như là cứ 120 công dân Hồng Kông thì có 1 người đã "thích" trang này.

Aileen Ho, Giám đốc tiếp thị của Tempo, cho rằng một trong những tính năng quan trọng của mạng xã hội là tính tương tác của nó. "Nó cung cấp một sự giao tiếp hai chiều", Ho nói. Không giống như các phương pháp tiếp thị truyền thống, chỉ có thể cung cấp một kênh giao tiếp một chiều, ngày nay người tiêu dùng đã có tiếng nói hơn. Bất cứ khi nào một nhãn hàng chia sẻ bài viết, họ có thể nhận được thông tin phản hồi về sản phẩm hoặc các chiến lược của mình gần như ngay lập tức. "Nhóm chúng tôi theo dõi các hoạt động trên Facebook hàng giờ," cô tiết lộ và cười.

Theo truyền thống, khi các công ty nghĩ về tiếp thị và truyền thông, viễn cảnh về thông cáo báo chí nhảy múa trong đầu họ. Tuy nhiên, Ho nghĩ trên không gian mạng, các nhãn hàng không thể nuôi dưỡng sự quan tâm của khách hàng bằng nội dung nhàm chán thêm được nữa.

Các nhãn hàng tạo ra một cá tính cho trang Facebook của mình để tiếp cận mọi người một cách hiệu quả hơn. "Giống như một người bạn bình thường trong danh sách bạn bè của bạn," Giám đốc tiếp thị chia sẻ. Người bạn thực sự này cũng nói ngôn ngữ của bạn, đôi khi là tiếng Quảng Đông, hoặc thậm chí chèn một nụ cười trong cuộc trò chuyện.
Cùng tạo nội dung

Giờ thì tiếng nói của khách hàng đã được lắng nghe, Tempo lấy ý tưởng từ cộng đồng mạng xã hội để phát triển bao bì mới, làm thay đổi cách đưa sản phẩm mới ra thị trường.

Năm ngoái, Tempo cộng tác với nhà thiết kế địa phương Prudence Mak - người tạo ra Chocolate Rain, để thiết kế bao bì khăn giấy hoạt hình mới, như những gì khách hàng bình chọn trên Facebook. "Tất cả những ý kiến (comment) sáng tạo trên trang Facebook chúng tôi đều là nội dung do người dùng tạo ra," cô nói. "Thật vậy, chúng tôi đang cùng nhau tạo ra những ý tưởng để giúp nuôi dưỡng một sự tương tác sâu sắc."



Sản phẩm hoạt hình theo ý kiến khách hàng
Để đẩy mạnh sản phẩm khăn giấy hương đào mới ra mắt, thương hiệu đã chạy một cuộc thi trên Facebook mà người dùng có thể tham gia và nhận được một phần quà. Cuộc thi này nhằm tạo sự trung thành của người dùng đối với nhãn hiệu nhiều hơn.
Tempo đã chạy cuộc thi trên Facebook khi ra mắt sản phẩm mới

Xử lý đánh giá - cả tốt và xấu


Rất nhiều công ty xem phương tiện truyền thông xã hội như một con dao hai lưỡi: ưu điểm là kết nối và xây dựng mối quan hệ với người tiêu dùng; và khuyết điểm là phải xử lý những nhận xét tiêu cực.

Khi nói đến chia sẻ, không phải tất cả các bài viết hay bình luận đều tích cực, và khi hầu hết các doanh nghiệp thấy những bình luận tức giận của khách hàng, phản ứng thông thường của họ sẽ là xóa bình luận hoặc không phản ứng gì với nó cả. Nhưng Ho nghĩ việc xóa những bình luận xấu không phải cách nên làm, "người dùng có thể gửi bình luận nhiều và nhiều hơn nữa hoặc đăng những quan điểm của mình trên các diễn đàn khác, thậm chí còn phàn nàn với bạn bè của họ".

Trong thế giới của Facebook, tốc độ là mang tính quyết định, thậm chí còn nhiều hơn thảm họa phương tiện truyền thông xã hội. Cô nghĩ rằng nó rất quan trọng trong việc kết nối lại những người đã đưa ra những đánh giá xấu cụ thể - ngay lập tức. "Chúng tôi sẽ trả lời họ trực tiếp theo quy trình và hỏi xem liệu chúng tôi có thể gửi cho họ một tin nhắn riêng để thảo luận thêm được không."
Kỷ nguyên của lắng nghe chủ động

Trong thời đại kỹ thuật số, xã hội không chỉ là một công cụ truyền thông, mà còn là một công cụ lắng nghe quan trọng.

Theo quan điểm của Priscilla Ng - Trưởng phòng nhượng quyền thương mại khách hàng của Citibank, phương tiện truyền thông xã hội phục vụ cho bốn mục đích: có được khách hàng mới, sự tương tác của khách hàng, chăm sóc khách hàng và lắng nghe xã hội.

Quay trở lại những ngày đầu khi một nhãn hàng muốn có được thông tin phản hồi hoặc ý kiến ​​của khách hàng, họ phải tiến hành các nhóm tập trung hoặc các cuộc khảo sát, Ng nói. Nhưng trong thời đại kỹ thuật số, xã hội không chỉ là một công cụ truyền thông, mà còn là một công cụ lắng nghe quan trọng. Bất cứ lúc nào doanh nghiệp của bạn được đề cập, bất cứ nơi nào trên trang web, bạn sẽ nghe về nó ngay lập tức, cho thấy phương tiện truyền thông xã hội đã tạo nên sự tương tác giữa người tiêu dùng và nhãn hàng. "Các thông tin trên phương tiện truyền thông xã hội là thời gian thực", Ng nói. "Vì vậy, chúng ta phải nghĩ cách để tiếp tục cuộc trò chuyện đầy ý nghĩa và thích hợp với các khách hàng trong lĩnh vực công nghệ cao."

Để mở rộng dấu chân kỹ thuật số của ngân hàng, Ng cho biết ngân hàng đã chuyển 50% ngân sách tiếp thị cho kỹ thuật số trong năm 2015 (nó chỉ là 20% trong năm 2012).

Phần lớn hơn trong sự đầu tư vào truyền thông trực tuyến phản ánh mục đích của ngân hàng là muốn có sự tương tác trực tiếp với công chúng.

Một điều chắc chắn là: truyền thông xã hội sẽ vẫn còn tiếp tục phát triển và các công ty đứng đầu cuộc cách mạng tiếp thị truyền thông xã hội sẽ là những công ty phát triển mạnh trong thị trường đầy biến đổi này.

Nguồn: IMAS communication & marketing-interactive.com

Nhằm để ghi nhớ lại những từ mà ngày xưa người Saigon hay dùng như: Mèn ơi, Nghen, Hén, Hen, Tà Tà, Thềm ba, Cà rịch cà tang, tàn tàn,…., và những câu thường dùng như : Kêu gì như kêu đò Thủ Thiêm, làm nư, cứng đầu cứng cổ, tháng mười mưa thúi đất, cái thằng trời đánh thánh đâm…v…v…
Xin nhờ mấy Anh Chị comment những từ nào còn nhớ để Trường góp nhặt ngỏ hầu lưu lại những tiếng gọi, câu nói thân thương của người Saigon và miền Nam trước đây,  e rằng một ngày nào đó nó sẽ mai một…

Tóc Demi Garcon

Giọng nói, sự pha trộn của ngôn ngữ miền Bắc di cư vào những năm 1950 hòa cùng ngôn ngữ Saigon, miền Tây đã tạo nên thêm một phong cách, giai điệu mới … và bài "Này cô em Bắc Kỳ nho nhỏ", hình ảnh cô gái chạy xe chậm rãi tỏ ra bất cần mấy anh chàng theo sau năn nỉ làm quen  không biết đã bao nhiêu lần làm bâng khuâng xao xuyến lòng người nghe. Nhất là cái giọng người Bắc khi vào Nam đã thay đổi nó nhẹ nhàng, ngang ngang như giọng miền Nam thì tiếng lóng miền Nam càng phát triển. Dễ nghe thấy, người Bắc nhập cư nói từ "Xạo ke" dễ hơn là nói "Ba xạo", chính điều dó đã làm tăng thêm một số từ mới phù hợp với chất giọng hơn. Chất giọng đó rất dễ nhận diện qua những MC như Nam Lộc, Nguyễn Ngọc Ngạn mà các Anh Chị đã từng nghe trên các Video chương trình Ca nhạc, kể chuyện, ….
Đặc biệt trong dịch thuật, nếu không am hiểu văn nói của Saigon miền Nam nếu dùng google dịch thì "qua biểu hổng qua qua qua đây cũng dzậy" (câu gốc: Hôm qua qua nói qua qua mà qua hỏng qua, hôm nay qua nói qua hỏng qua mà qua qua) nó dịch ra như vầy "through through through through this gaping expression too" Ông Tây đọc hiểu được ý thì chịu chết… Hay như câu "giỏi dữ hôn" thì google dịch cũng ngất ngư con lạc đà…
Trong văn nói, người Miền Nam hay dùng điệp từ cùng nguyên âm, hay phụ âm, hoặc dùng hình tượng một con vật đễ tăng cấp độ nhấn mạnh: như bá láp bá xàm, cà chớn cà cháo, sai bét bèng beng (từ bèng beng không có nghĩa),… sai đứt đuôi con nòng nọc,…  chắc là phải cả pho sách mới ghi lại hết….Phong cách sử dụng từ như vậy Trường mong sẽ có một dịp nào đó viết một bài về nó. Hà! ai người miền Nam thì cũng hiểu câu này: "thôi tao chạy trước tụi bây ở lại chơi vui hén" , ở đây chạy cũng có nghĩa là đi về, chứ không phải là động từ "chạy = to run" như tiếng Anh
Hay và lạ hơn, cách dùng những tựa hay lời bài hát để thành một câu nói thông dụng có lẽ phong cách này trên thế giới cũng là một dạng hiếm, riêng Miền Nam thì nhiều vô kể ví dụ : Khi nghe ai nói chuyện lập đi lập lại mà không chán thì người nghe ca một đoạn: " Nhắc chi chuyện cũ thêm đau lòng lắm người ơi!", hoặc khi sắp chia tay thì lại hỏi : "Đêm nay ai đưa em về !" người ngoại quốc ai không biết cứ tưởng là người đó đang ca chứ hổng phải đang hỏi mình, như khi nghe ai nói chuyên mà chuyện này ai cũng biết rồi thì lại nói: "Xưa rồi diễm…." với cái giọng mà âm "…i…ễ…m…" kéo dài tha thướt.

Tuy nhiên, do những từ này được trình bày bằng chữ nghĩa nên cách xài nhấn âm, lên giọng của người Miền Nam không thể biểu lộ hết cái hay của nó, ví dụ như riêng câu: "thằng cha mầy, làm gì mà mồ hôi đổ ướt hết áo dậy?" cụm từ "thằng cha mầy" kéo dài hơi lại có nghĩa là gọi yêu thương chứ không phải la mắng, tương tự khi mấy cô gái nguýt (nói): " Xí! Hổng chịu đâu","Xí! Cha già dịch nè !", " Sức mấy!, "Ông nói gì tui ưa hổng nổi nha!", "Cha già khó ưa! " với cách nhấn giọng thì nghe rất dễ thương và dịu dàng nhưng khó gần lắm à nghen, nhưng đến khi nghe câu " tui nói lần cuối, tui hổng giỡn chơi với Ông nữa đâu đó nghen! " thì coi chừng … liệu hồn đó.
Thật ra không phải người Saigon ai cũng xài hết mấy từ này, chỉ có người bình-dân mới dám xài từ như Mả cha, Tổ mẹ để kèm theo câu nói mà thôi. Dân nhà trí thức ít ai được Ba Má cho nói, nói ra là vả miệng không kịp ngáp luôn, giáo dục ngày xưa trong gia đình rất là khó, nhất là mấy người làm bên nghề giáo dạy con càng khó dữ nữa. Ra đường nghe mấy đứa con nít nói "DM" thậm chí còn không hiểu nó nói gì, về nhà hỏi lại chữ đó là gì, chưa gì đã bị cấm tiệt không được bắt chước, lúc đó chỉ nghe Ba Má trả lời: "Đó là nói bậy  không được bắt chước đó nghen!". Chưa kể tới chuyện người lớn đang ngồi nói chuyện mà chạy vô xầm xập hỏi thì cũng bị la rầy liền : "Chổ người lớn nói chuyện không được chen vô nhớ chưa?". Đến năm 1980 thì giáo dục cũng khác hẳn ngôn ngữ bắt đầu đảo lộn ở cấp tiểu học… tiếng Saigon dần dần bị thay đổi, đến nay trên các chương trình Game Show chỉ còn nghe giọng miền Nam với câu nói: "Mời anh trả lời ạ" "các bạn có thấy đúng không ạ", ạ… ạ …ạ… cái gì cũng ạ….làm tui thấy lạ. Thêm nữa, bây giờ mà xem phim Việt Nam thì hình như không còn dùng những từ ngữ này, khi kịch bản phim, hay tiểu thuyết đặt bối cảnh vào thời điểm xưa mà dùng ngôn ngữ hiện đại lồng vào, coi phim nghe thấy nó lạ lạ làm sao đâu á…
Tò te tí te chút, mong rằng các Anh Chị khi đọc những từ này sẽ hồi tưởng lại âm hưởng của Saigon một trời thương nhớ!
Chân thành cám ơn những đóng góp của các Anh Chị,
Trân trọng,
Nguyễn Cao Trường

*nội dung diễn giải từ ngữ đã được chỉnh sửa lần 4
A-ma-tưa(ơ) = hổng chuyên nghiệp (gốc Pháp Amateur)
À nha = thường đi cuối câu mệnh lệnh dặn dò, ngăn cấm (không chơi nữa à nha)
Áng chừng, đâu chừng, hổng chừng, dễ chừng = dự đoán (từ đây qua kia áng chừng 500 thước – Đâu chừng thằng Sáu chiều nay nó dìa tới đó bây)
Anh em cột chèo
Áo ca-rô = áo kẻ ô (bắc)
Áo thun ba lá = Áo thun ba lổ, Áo May Ô (bắc) gốc Pháp maillot
Áp-phe = trúng mánh, vô mánh (chạy áp-phe vớt cú chót kiếm tiền!) gốc tiếng Pháp affair
Áp-phê = hiệu ứng, hiệu quả (billard: để hết áp-phê bên trái chúi đầu cơ xuống kéo nhẹ là nó qua liền hà)
Ăn coi nồi, ngồi coi hướng = Ăn trông nồi, ngồi trông hướng
Ăn hàng = ăn uống, đi ăn cái gì nhẹ như chè, chứ không phải ăn cơm trưa-chiều. (Thường chỉ có con gái mới dám đi ăn hàng, hồi xưa con trai không dám đi ăn hàng vì bị chọc thì mắc cở lắm, thêm nữa, gia đình giáo dục con trai khác với con gái, thường Ông Bà Bô hay nói: "con trai phải ra con trai nghen, ai đời con trai mà ăn hàng như con gái". Con gái mà đi ăn hàng nhiều cũng bị la rầy. (sau này mấy tay trộm cướp cũng xài từ "ăn hàng", tức là đi giựt dọc, cướp bóc từ B4-1975)
Âm binh = Cô hồn, các đảng, phá phách (mấy thằng âm binh = mấy đứa nhỏ phá phách),…
Bà chằn lữa = người dữ dằn (dữ như bà chằn)
Bá chấy, bá phát = quá xá – Ngon bá chấy bò chét chó ! Là ngon quá trời đất luôn !
Ba ke, Ba xạo = xạo – sau này (1975) có thêm chữ ba đía rồi bớt dần thành đía ( đừng có đía= đừng có nói xạo)
Ba lăm = 35 = già dê (dê 35)
Bá Láp Bá Xàm =Tầm xàm – Bá láp
Bà tám = nhiều chuyện (thôi đi bà tám = đừng có nhiều chuyện nữa, đừng nói nữa)
Ba Tăng = Bảo kê gốc Pháp Patent
Bang ra đường = chạy ra ngoài đường lộ mà không coi xe cộ, hoặc chạy ra đường đột ngột, hoặc chạy nghênh ngang ra đường
Bành ki = bự
Banh ta lông = như hết chuyện (gốc từ cái talon của vỏ xe)
Bảnh tỏn, Sáu bảnh= đẹp ra dáng (mặt đồ vô thấy bảnh tỏn ghê nha)
Banh xà lỏn
Bạt mạng = bất cần, không nghĩ tới hậu quả (ăn chơi bạt mạng)
Băng = nhà băng, ngân hàng gốc Pháp (banque)
Bặc co tay đôi = đánh nhau tay đôi
Bắt kế: là do PƠRKAI KUDA mà ra, Pơkai = Thắng vào xe, Kuda = Con ngựa.
Bặm trợn = trông dữ tợn, dữ dằn
Bất thình lình = đột ngột, Bất tử
Bầy hầy = bê bối, ở dơ
Bẹo = chưng ra, Bệu (gốc từ cây Bẹo gắn trên ghe để bán hàng ở chợ nổi ngày xưa)
Bẹo gan = chọc cho ai nổi điên, ứa gan
Bề hội đồng = hiếp dâm tập thể
Bển = bên đó, bên ấy (tụi nó đang chờ con bên bển đó!)
Bí lù = không biết đường trả lời, không biết
Bí xị = buồn
Biết đâu nà, biết đâu nè, = biết đâu đấy
Biết sao hôn !
Biệt tung biệt tích, biệt tăm biệt tích, mất tích, mất tiêu, đâu mất = không có mặt, mất dấu
Biểu (ai biểu hổng chịu nghe tui mần chi! – lời trách nhẹ nhàng) = bảo, nhưng câu "ai biểu" thì lại có hàm ý người kia: "tự làm thì tự chịu"
Bình thủy = phích nước
Bình-dân = bình thường
Bít bùng
Bo bo xì = nghỉ chơi không quen nữa (động tác lấy tay đập đập vào miệng vừa nói của con nít)
Bỏ qua đi tám = cho qua mọi chuyện đừng quan tâm nữa (chỉ nói khi người đó nhỏ vai vế hơn mình)
Bỏ thí = bỏ
Bồ = gọi bạn thân thiết ( Ê chiều nay bồ rãnh tạt qua nhà chở tui đi luôn nghen)
Bồ đá = bị bạn gái bỏ
Bội phần, muôn phần = gấp nhiều lần
Bồn binh = Bùng binh, vòng xoay (nay)
Buồn xo, buồn hiu = rất buồn ( làm gì mà coi cái mặt buồn xo dậy? )
Buột = cột
Bữa = buổi/từ đó tới nay (ăn bữa cơm rồi về/bữa giờ đi đâu mà hổng thấy qua chơi?)
Cà chớn cà cháo = không ra gì
Cà chớn chống xâm lăng. Cù lần ra khói lửa. (một câu nói trong thời chiến)
Cà giựt :  lăng xăng, lộn xộn
Cà kê dê ngỗng = dài dòng, nhiều chuyện
Cà Na Xí Muội = chuyện không đâu vào đâu
Cà nghinh cà ngang = nghênh ngang
Cà nhõng = rãnh rỗi không việc gì để làm (đi cà nhõng tối ngày), có khi gọi là nhõng nhõng
Cà lơ phất phơ
Cà rem = kem
Cà rề, Cà rịt cà tang = chậm chạp
Cà rịch cà tang
Cà tàng = bình thường, quê mùa,….
Cà tong cà teo
Cà tưng cà tửng
Cái thằng trời đánh thánh đâm
Càm ràm = nói tùm lum không đâu vào đâu/nói nhây
Cạn tàu ráo máng; ăn cháo đá bát = vô ơn
Càng quấy = phá phách hư hỏng
Cảo = kéo, rít (cảo điếu thuốc gần tới đót)
Cảo Dược = làm cho thẳng
Có chi hông? = có chuyện gì không?
Coi = thử; liền vd: Nói nghe coi? Làm coi
Coi bộ ngon ăn, ngon ăn đó nghen = chuyện dễ ăn ( không liên quan tới ngon dỡ – chuyện này làm coi bộ ngon ăn đó nghen!)
Coi được hông?
Còn ai trồng khoai đất này = chính là tôi, "tôi đây chớ ai"
Còn khuya = còn lâu ( uh! mày ngon nhào vô kiếm ăn, còn khuya tao mới sợ mày!)
Con ở = người ở, (nay Oshin từ tựa đề bộ phim của Nhật)
Cô hồn, các đảng
Công tử bột = nhìn có dáng vẻ thư sinh yếu đuối- Xem thêm
Cù lần, cù lần lữa = từ gốc từ con cù lần chậm chạp, lề mề, chỉ người quá chậm lụt trong ứng đối với chung quanh … (thằng này cù lần quá!)
Cua gái = tán gái
Cụng = chạm
Cuốc = chạy xe (tui mới làm một cuốc từ Hocmon dzia Saigon cũng được trăm hai bỏ túi!)
Cứng đầu cứng cổ
Chả = Cha đó
Chà bá , tổ chảng, chà bá lữa = to lớn, bự
Cha chả = gần như từ cảm thán "trời ơi! " (Cha chả! hổm rày đi đâu biệt tích dzậy ông?)
Chàng hãng chê hê = banh chân ra ngồi ( Con gái con đứa gì mà ngồi chàng hãng chê hê hà, khép chưn lại cái coi!)
Cháy túi = hết tiền
Chạy, Dọt, Chẩu = đôi khi cũng có nghĩa là đi về (thôi tụi bây ở chơi tao chạy (dọt) trước à!) Chẩu:   nguyên gốc âm lấy từ tiếng Quảng Đông
Chạy te te = chạy một nước – Con nhỏ vừa nghe Bà Hai kêu ra coi mắt thì nó xách đích chạy te te ra đằng sau trốn mất tiêu rồi
Chạy tẹt ga, đạp hết ga= kéo hết ga, hết sức – cũng có nghĩa là chơi thoải mái – "mày cứ chơi "tẹt ga" (mát trời ông địa) đi, đừng có sợ gì hết, có gì tao lo" (ga = tay ga của xe)
Chạy u đi
Chạy vắt giò lên cổ, Chạy sút quần, Chạy đứng tóc = chại không kịp thở
Chằn ăn trăn quấn = dữ dằn
Chậm lụt = chậm chạp, khờ
Chận họng = không cho người khác nói hết lời
Chém vè (dè)= trốn  trốn cuộc hẹn trước
Chén = bát
Chèn đét ơi, mèn đét ơi, chèn ơi, Mèn ơi = ngạc nhiên
Chèo queo = một mình (làm gì buồn nằm chèo queo một mình dậy? )
Chết cha mày chưa! có chiện gì dậy? = một cách hỏi thăm xem ai đó có bị chuyện gì làm rắc rối không
Chì = giỏi (anh ấy học "chì" lắm đó).
Chiên = rán
Chình ình, chần dần = ngay trước mặt ( Nghe tiếng gọi thằng Tư quay đầu qua thì đã thấy tui chình ình trước mặt)
Chịu = thích, ưa, đồng ý ( Hổng chịu đâu nha, nè! chịu thằng đó không tao gả luôn)
Chỏ mũi, chỏ mỏ= xía, xen vào chuyện người khác
Chói lọi = chói sáng
Chỏng mông = mệt bở hơi tai (làm chỏng mông luôn đây nè)
Chỗ làm, Sở làm = hãng xưỡng, cơ quan công tác
Chột dạ = nghe ai nói trúng cái gì mình muốn dấu
Chơi chỏi = chơi trội, chơi qua mặt
Chùm hum = ngồi bó gối hoặc ngồi lâu một chỗ không nhúc nhích, không quan tâm đến ai (có gì buồn hay sao mà ngồi chùm hum một chỗ dậy? )
Chưn = chân
Chưng hững = ngạc nhiên
Chưng ra = trưng bày
Dạ, Ừa (ừa/ừ chỉ dùng khi nói với người ngang hàng) = Vâng, Ạ
Dạo này = thường/nhiều ngày trước đây đến nay (Dạo này hay đi trễ lắm nghen! /thường)
Dấm da dấm dẵng
Dân chơi cầu ba cẳng = dân giang hồ – cũng có nghĩa khác là chịu chơi nữa (giống dân chơi cầu ba cẳng)
Dây, không có dây dzô nó nghe chưa = không được dính dáng đến người đó
Dè chừng = coi chừng (Tui lỡ nói lớn chút ai dè nó nghe được, chứ thiệt tình tui đâu có muốn)
Dễ tào = dễ sợ
Dì ghẻ = mẹ kế
Dị hợm = quái dị,  không giống ai –
Dĩa = Đĩa
Diễn hành, Diễn Binh= diễu hành, diễu binh (chữ diễu bây giờ dùng không chính xác, thật ra là "diễn" mới đúng)
Diễu dỡ =????
Dọt lẹ
Dô diên (vô duyên) = không có duyên (Người đâu mà vô diên thúi vậy đó hà – chữ "thúi' chỉ để tăng mức độ chứ không có nghĩa là hôi thúi)
Dù = Ô
Du ngoạn = tham quan
Dục (vụt) đi = vất bỏ đi (giọng miền nam đọc Vụt = Dục âm cờ ít đọc thành âm tờ, giống như chữ "buồn" giọng miền nam đọc thành "buồng")
Dùng dằng = ương bướng
Dữ đa, Dữ hôn và …dữ …hôn…= rất ( giỏi dữ hén cũng có nghĩa là khen tặng nhưng cũng có nghĩa là đang răn đe trách móc nhẹ nhàng tùy theo ngữ cảnh và cách diễn đạt của người nói ví dụ: "Dữ hôn! lâu quá mới chịu ghé qua nhà tui nhen", nhưng "mày muốn làm dữ phải hôn" thì lại có ý răn đe nặng hơn ) Dữ đa thường dùng cuối câu " cái này coi bộ khó kiếm dữ đa"
Dzìa, dề = về (thôi dzìa nghen- câu này cũng có thể là câu hỏi hoặc câu chào tùy ngữ điệu lên xuống người nói)
Dừa dừa (vừa) thôi nhen = đừng làm quá
Đá cá lăn dưa = lưu manh
Đa đi hia = đi chỗ khác.
Đã nha! = Sướng nha!
Đài phát thanh = đài tiếng nói
Đánh dây thép = gữi điện tín
Đàng = đường (Đi một đàng học một sàn khôn)
Đánh đàn đánh đọ = Đánh đàn (học thì lo học không "đánh đàn đánh đọ" nhe hông) một cách để chê việc đánh đàn bằng cách ghép thêm hai từ láy đánh đọ phía sau.
Đánh tù xầm, Quảnh tù xì = oẳn tù tì (trò chơi bằng tay ra kéo, búa, bao) gốc từ tiếng Anh: one two three
Đào hát = nữ diễn viên cải lương, Tài tử cải lương = nam
Đặng = được (Qua tính vậy em coi có đặng hông?)
Đầu đường xó chợ
Đen như chà dà (và) = đen thui, đen thùi lùi = rất là đen
Đẹp trai con bà Hai = đẹp
Đế = chen thêm (đang nói nó đế vô một câu chận họng làm tui câm luôn)
Đêm nay ai đưa em dìa = hôm nay về làm sao, khi nào mới về (một cách hỏi) – từ bài hát Đêm nay ai đưa em về của NA9
Đi bang bang = đi nghênh ngang
Đi bụi
Đi cầu = đi đại tiện, đi nhà xí
Đi mần = đi làm
Đồ bỏ đi = đồ hết xài (người gì xài hổng dô, đúng là đồ bỏ đi mà)
Đồ già dịch = chê người mất nết tùy ngữ cảnh và cách nhấn âm, kéo dài thì sẽ có hàm ý khác
Đồ mắc dịch = xấu nết tuy nhiên, đối với câu Mắc dịch hông nè! có khi lại là câu nguýt – khi bị ai đó chòng ghẹo
Đờn = đàn
Đùm xe = Mai-ơ
Đừng có mơ, đừng có hòng
Được hem (hôn/hơm) ? = được không ? chữ hông đọc trại thành hôn, hem hoặc hơm
Gác dan = bảo vệ, người gác cổng (gốc Pháp: Guardian)
Gần xịt = thiệt là gần
Ghẹo, chòng ghẹo = chọc quê
Ghét = tùy cách nhấn giọng và kéo dài  thì ….  ghét chưa chắc đã ghét mà chỉ là câu nói thể hiện thương, hay chấp nhận nữa hổng chừng
Ghê = rất – hay ghê há tùy theo ngữ cảnh và âm điệu thì nó mang ý nghĩa là khen hoặc chê
Gớm ghiết = nhìn thấy ghê, không thích
Già dịch = Già dê
Già háp = già khằn, già cú đế
Giục giặc, hục hặc = đang gây gổ, không thèm nói chuyện với nhau (hai đứa nó đang hục hặc! )
Ghi-đông, Bọt-ba-ga
Hãng, Sở = công ty, xí nghiệp
Hay như = hoặc là
Hầm = nóng (trời hầm quá ngồi không mà người nó đổ mồ hôi ướt nhẹp)
Hầm bà lằng (gốc tiếng Quảng Đông);
Hậu đậu = làm việc gì cũng không tới nơi tới chốn
Héo queo = xụi lơ, bi xị
Hết = chưa, hoặc chỉ nâng cao mức độ nhấn mạnh (chưa làm gì hết)
Hết trơn hết trọi = chẳng, không – "Hết Trọi" thường đi kèm thêm cuối câu để diễn tả mức độ (Ở nhà mà hổng dọn dẹp phụ tui gì hết trơn (hết trọi) á! )
Hồi nảo hồi nào = xưa ơi là xưa
Hồi nẳm = lâu lắm rồi không nhớ ngày tháng
Hổm rày, mấy rày = từ mấy ngày nay
Hổng có chi! = không sao đâu
Hổng chịu đâu
Hổng thích à nhen!
Hổng xi nhê = không ăn thua,  không có ý nghĩa gì hết , (Kiếm nhiêu đây tiền đâu có xi nhê gì) gốc pháp: Signifier
Hột = hạt (hột đậu đen, đỏ) miền nam ghép cả Trứng hột vịt thay vì chỉ nói Trứng vịt như người đàng ngoài
Hờm = chờ sẵn ( tui hờm sẵn rồi chỉ chờ thằng kia nó chạy ra là tui cho nó một đá cho nó lăn cù mèo luôn)
Hợp gu = cùng sở thích
Hớt hơ hớt hãi = hấp tấp và sợ hãi ( nó hớt hơ hớt hãi chạy vào báo tin …. )
Kẻo = coi chừng (Trời ui ui! giờ không đi sớm kẻo trời nó mưa là ướt chèm nhẹp luôn đó nhe)
Kể cho nghe nè! = nói cho nghe
Kêu gì như kêu đò thủ thiêm = kêu lớn tiếng, kêu um trời,…. xem thêm bài kêu đò thủ thiêm
Kêu giựt ngược = kêu gấp bắt buột người khác phải làm theo ý mình (kêu cái gì mà kêu như giựt ngược người ta hà!)
Khán thính giả (người xem kịch, cải lương, truyền hình,…) trong đó Khán (): xem – Thính (): nghe,  giả ( ): người, tổng hợp lại là người nghe nhìn, giờ thì kêu ngắn gọn là khán giả: chỉ biết xem mà không nghe được, đỡ cãi
khính = ké – mặc đồ khính, đi ăn khính,…
Khỉ đột
Khỉ gió
Khỉ khô
Khó ưa = chê nhưng có lúc lại là khen. (Mặt thằng nhỏ khó ưa quá hà!)
Khoái tỉ = thích gần chết
Không thèm = không cần (làm gì dữ dạ tui đâu có thèm đâu mà bày đặt nhữ qua nhữ lại trước mặt tui? )
Làm (mần) cái con khỉ khô = không thèm làm
Làm (mần) dzậy coi được hông?
Làm dzậy coi có dễ ưa không? = một câu cảm thán tỏ ý không thích/thích tùy theo ngữ cảnh
Làm gì mà toành hoanh hết zậy
Làm mướn = làm thuê
Làm nư = lì lợm, Làm cho lợi gan
Làm um lên = làm lớn chuyện
Lán cón = bảnh bao (có thể do hồi xưa ra đường chải đầu tóc bóng mượt, đánh giày bóng như gương, quần áo thẳng thớm nên ra từ này)
Lanh chanh
Lạnh xương sống
Lao-cần (cách dùng từ của Ông Nguyễn Văn Vĩnh có gạch nối ở giữa)
Láo-háo = khoảng chừng ( tuổi nó láo háo cở tuổi tao chứ mấy)
Lao-tổn (cách dùng từ của Ông Nguyễn Văn Vĩnh có gạch nối ở giữa)
Lặc lìa = muốn rớt ra, rời ra nhưng vẫn còn dính với nhau chút xíu
Lặc lìa lặc lọi = ?
Lắm à nhen = nhiều, rất (thường nằm ở cuối câu vd: thương lắm à nhen)
Lăn cù mèo = lăn long lóc, té ngữa
Lắt lư con lạc đà = nghiêng qua nghiêng lại
Lầm lầm lì lì = không nói không rằng mặt nghiêm tỏ ý không thích
Lần = tìm kiếm (biết đâu mà lần = biết tìm từ chỗ nào)
Lần mò = tìm kiếm, cũng có nghĩa là làm chậm chạm (thằng tám nó lần mò cái gì trong đó dậy bây?)
Lấy le = khoe đồ
Lẹt đẹt = ở phía sau, thua kém ai ( đi lẹt đẹt! Lảm gì (làm cái gì) mà cứ lẹt đẹt hoài vậy)
Leo cây; leo cây me = thất hẹn; Xong! nãy giờ chờ thấy bà, chắc thằng Tám nó cho tụi mình leo cây rồi!
Lèo = thất hẹn – hứa lèo,
Lề mề
Lên bờ xuống ruộng
Lên hơi, lấy hơi lên = bực tức (Nghe ông nói tui muốn lên hơi (lấy hơi lên) rồi đó nha!
Liệu = tính toán (thằng Ba liệu coi đi sớm một chút kẻo bị kẹt xe thì lỡ hết chiện đó nhen!)
Liệu hồn = coi chừng
Líp-ba-ga = mút mùa Lệ Thủy, thoải mái
Lô = đồ giả, đồ dỡ, đồ xấu (gốc từ chữ local do một thời đồ trong nước sản xuất bị chê vì xài không tốt)
Lộn = nhầm (nói lộn nói lại)
Lộn xộn = làm rối
Lục cá nguyệt: sáu tháng. Ví dụ: Nộp báo cáo sáu tháng một lần: Nộp báo cáo lục cá nguyệt.
Lục đục = không hòa thuận (gia đình nó lục đục quài), đôi khi lại có nghĩa khác ( Làm gì lục đục ở sau bếp hoài vậy bây?)
Lụi hụi = ???? (Lụi hụi một hồi cũng tới rồi nè!)
Lùm xùm = rối rắm,
Lừng mặt = quen quá không còn sợ nữa (Chơi với nó riết nó lừng mặt mình luôn nhen)
Lười chẩy thây; đại lãn; liệt = làm biếng
Má = Mẹ
Mả = Mồ
Ma lanh, Ma le gốc Pháp (Malin)
Mã tà = cảnh sát
Mari phông tên = con gái thành phố quê mùa
Mari sến = sến cải lương
Mát trời ông địa, tẹt ga = thoải mái
Máy lạnh = máy điều hòa nhiệt độ
Mắc cười = buồn cười
Mắc dịch = Mất nết, không đàng hoàng, lẳng lơ, xỏ lá, bởn cợt. Nhưng cũng có nghĩa nói ngầm là đồng ý nữa, thí dụ: "Giữ đi, mắc dịch không hà trả lại tui mần chi?"
Mắc địt = dỡ ẹt; một cách chê cái gì đó dỡ
Mặt chù ụ một đống, mặt chầm dầm
Mần ăn = làm ăn
Mần chi = làm gì
Mậy = mày ( thôi nghen mậy = đừng làm nữa)
Mé = phía  (nhà ổng ở xích mé bên kia kìa)
Mé = tỉa nhánh
Mè nheo = Mèo nheo
Méo xẹo, buồn hiu = thất vọng (cầm bài thi nhìn điểm xong thằng Tư mặt méo xẹo, về nhà thể nào cũng bị Ba rầy)
Mét = mách
Miệt = kèm theo để chỉ một vùng đất, địa danh  Miệt Hóc Môn, Miệt dưới, Miệt vườn
 Miệt, mai, báo, tứ, nóc… chò = 1, 2, 3, 4, 5…. 10.
Mình ên = một mình (đi có mình ên, làm mình ên) gốc K'mer
Mò mẫm rờ rẫm sờ sẩm (hài) = mò
Mồ tổ! = câu cảm thán
Một lèo, một hơi = một mạch
Muỗng = Thìa, Môi
Mút mùa lệ thủy = mất tiêu
Nam Tàu Bắc Đẩu
Nào giờ = từ trước tới nay
năn nỉ ỉ ôi
Niềng xe = vành xe
Nói nghe nè!
Nón An toàn = Mũ Bảo hiểm
Nổ banh xác = nói láo
Nổ dữ dội= quăng lựu đạn (ngày xưa có chuyện hay chọi "lụ đạn" vô chợ khủng bố dân lành)
Nổi cơn tam bành = giận dữ
Nước lên, nước xuống, nước rồng (thủy triều)
Nước phun-tên = nước thủy cục, nước máy, gốc Pháp fontaine
Ngang Tàng = bất cần đời
Nghen, hén, hen, nhen
Nghía = ngắm
Ngó lơ = làm lơ, nhìn chỗ khác không để ý tới ai đó
Ngoại quốc = nước ngoài
Ngon bà cố = thiệt là ngon
Ngộ = đẹp, lạ (cái này coi ngộ hén)
Ngồi chồm hỗm = ngồi co chân ….chỉ động tác co gập hai chân lại theo tư thế ngồi … Nhưng không có ghế hay vật tựa cho mông và lưng … (Chợ chồm hổm – chợ không có sạp)
Ngủ nghê
Ngựa đực, Ngựa cái = xãnh xẹ
Người Thượng = người dân tộc miền núi
Nhá qua nhá lại
Nhà đèn = công ty điện lực
Nhà thép = bưu điện – Đánh dây thép
Nhà thuốc GÁC = nhà thuốc Tây bán 24/24
Nhan nhãn = thấy cái gì nhiều đằng trước mặt
Nhào vô kiếm ăn, ngon vô đây = thách đố ( dám chơi hông, ngon vô đây!)
Nhắc chi chuyện cũ thêm đau lòng lắm người ơi! = đừng nhắc chuyện đó nữa, biết rồi đừng kể nữa – trích lời trong bài hát Ngày đó xa rồi
Nhậu = một cách gọi khi uống rượu, bia
Nhí nhảnh
Nhiều chiện = nhiều chuyện
Nhìn khó ưa quá (nha)= đôi khi là chê nhưng trong nhiều tình huống lại là khen đẹp nếu thêm chữ NHA phía sau
Nhóc, đầy nhóc : nhiều
Nhột = buồn
Nhữ qua nhữ lại = đưa qua đưa lại  cái gì đó trước mặt ai (tương tự "nhá qua nhá lại – nhá tới nhá lui" nhưng cấp độ mạnh hơn)
Nhựt = Nhật
Òm = dễ òm, dị òm,…
Oải chè đậu; quải chè đậu
Ông bà bô = ba má (thường những người có học vấn thì dùng từ này để nói chuyện với bạn về ba má mình)
Ông bà ông giải = Ông bà ông vãi (bắc)
Ồng Cò = cảnh sát
Ổng, Bả, Cổ, Chả = Ông, Bà, Cô, Cha ấy = ông đó ổng nói (ông ấy nói)
Phi cơ, máy bay = tàu bay
Phờ râu = mệt
Qua bên bển, vô trong trõng, đi ra ngoải,
Quá cỡ thợ mộc…= làm quá,
Qua đây nói nghe nè! = kêu ai đó lại gần mình
Quá xá = nhiều (dạo này kẹt chiện quá xá! )
Quá xá quà xa = quá nhiều, quá đã
Quắc cần câu = nhậu say hết biết đường
Quăng lựu đạn (ngày xưa hay có chuyện quăng "lựu đạn" vô chợ khủng bố dân lành)
Quần què = (từ tục) chỉ cái quần của phụ nữ ngày có kinh nguyệt, dơ
Quấy = làm sai – dùng cho con nít thì lại khác, có ý là vừa quậy phá vừa khóc (thằng nhóc này hay khóc quấy quá!)
Quê một cục
Quê xệ
Quởn
Ra giường (drap) = vải trãi giường (tui không tính đưa từ này vô nhưng bây giờ họ xài từ chăn, ga , gối, nệm nghe nó kỳ cục gì đâu, đã vậy còn dịch là khăn trải giường, khăn chỉ dùng để lau, cũng không thể nào lớn như cái tấm vải trãi giường được)
Ra giêng = qua năm mới, qua tết
Rành = thành thạo, thông thạo, biết (tui hồng rành đường này nhen, tui rành nó tới "sáu câu vọng cổ".
Ráo = hết
Rạp = nhà hát(rạp hát), dựng một cái mái che ngoài đường lộ hay trong sân nhà để cho khách ngồi cho mát (dựng rạp làm đám cưới)
Rân trời = Rần trời, um sùm
Rầu thúi ruột = Sầu thê thảm
Riết = liên tục, hoài –  Mần riết = làm hoài
Ro ro = nhuần nhuyễn, (mới tập chạy xe honda mà nó chạy ro ro hà – nó trả bài ro ro)
Rốp rẽng (miền Tây) = làm nhanh chóng
Rốt ráo (miền Tây) = làm nhanh chóng và có hiệu quả
Rũng rỉnh = có tiền trong túi
Ruột xe = xăm
Rượt = chạy đuổi theo
Sai bét bèng beng = rất sai, sai quá trời sai!
Sai đứt đuôi con nòng nọc = như Sai bét bèng beng
Sạp = quầy hàng
Sáu Bảnh
Sấp nhỏ = tụi nhỏ, mấy đứa nhỏ
Sến = cải lương màu mè (mặt đồ gì sến quá trời dậy cha?) nhạc sến lại có ý nghĩa khác không phải là nhạc cải lương
Sến hồi xưa là người làm giúp việc trong nhà. Mary sến cũng có nghỉa là lèn xèn như ng chị hai đầy tớ trong nhà.
Sên xe = xích  gốc pháp chain
Sếp phơ = Tài xế
Sống lây lất qua ngày
Sụm bà chè = mệt mõi, đi hết nổi
Sức mấy,
Sườn xe = khung xe
Tả Pín Lù : Hầm bà lằng  (gốc Quảng Đông)
Tà tà, tàn tàn, cà rịch cà tang = từ từ
Tài lanh
Tàn mạt = nghèo rớt mùng tơi
Tàng tàng = bình dân
Tào lao, tào lao mía lao, tào lao chi địa, tào lao chi thiên,… chuyện tầm xàm bá láp = vớ vẫn
Tạt qua = ghé qua
Tàu hủ = đậu phụ
Tầm ruồng
Tầm xàm bá láp
Tần ngần = do dự (tẩn ngẩn tần ngần)  Cậu Hai đứng tần ngần trước nhà cô Ba muốn gỏ cửa mà khổng dám.
Tầy quầy, tùm lum tà la = bừa bãi
Té (gốc từ miền Trung)= Ngã
Tèn ten tén ten = chọc ai khi làm cái gì đó bị hư
Teo bu-gi = Sợ gần chết (bugi gốc Pháp)
Tía, Ba = Cha
Tiền lính tính liền, tiền làng tàn liền …!
Tó = lấy, bắt
Tò te tí te = Nói chuyện – "Coi đó! nó xẹt qua tò te tí te với tui mấy câu thì xẹt đi mất tiêu"
Tòn teng = đong đưa, đu đưa
Tổ cha, thằng chết bầm
Tốp nhỏ = nhóm người nhỏ tuổi ( thường chỉ có người lớn tuổi gọi như vậy "Tốp nhỏ tụi bây coi dẹp đồ chơi cho lẹ lo rữa tay rồi lên ăn cơm nhen")
Tới = đến (người miền Nam và SG ít khi dùng chữ đến mà dùng chữ tới khi nói chuyện, đến thường chỉ dùng trong văn bản)
Tới chỉ = cuối (Hôm nay chơi tới chỉ luôn!)
Tới đâu hay tới đó = chuyện đến rồi mới tính
Tui ưa dzụ (vụ) này rồi à nhen = tui thích việc này rồi ( trong đó tui = tôi )
Tui, qua = tôi
Tụm năm tụm ba = nhiều người họp lại bàn chuyện hay chơi trò gì đó
Tức cành hông = tức dữ lắm
Tháng mười mưa thúi đất
Thảy = quăng
Thắng = phanh
Thằng cha mày, ông nội cha mày = một cách nói yêu với người dưới tùy theo cách lên xuống và kéo dài âm, có thể ra nghĩa khác cũng có thể là một câu thóa mạ
Thâm căn cố đế = người sống ở vùng nào rất lâu rồi, dân gộc
Thậm thụt
Thầy chạy
Thấy ghét, nhìn ghét ghê = có thể là một câu khen tặng tùy ngữ cảnh và âm điệu của người nói
Thấy gớm = thấy ghê, tởm (cách nói giọng miền Nam hơi kéo dài chữ thấy và luyến ở chữ Thấy, "Thấy mà gớm" âm mà bị câm)
Thấy gớm = thấy ớn
Thèo lẽo = mách lẽo ( Con nhỏ đó chuyên thèo lẽo chuyện của mầy cho Cô nghe đó! )
Thềm ba, hàng ba
Thêm thắc
Thí = bố thí, cho không, miễn phí, bỏ ( thôi thí cho nó đi!) – xưa SG có nhà thương thí: bệnh nhân không phải trả tiền, thí ở đây không mang hàm  ý xấu như bây giờ
Thí cô hồn
Thí dụ = ví dụ
Thiệt hôn? = thật không?
Thiệt tình = cảm thán (thiệt tình! nói quài mà nó hổng chịu nghe để giờ té nằm một đống)
Thính giả (người nghe radio, đài)
Thọc cù lét, chọc cù lét = ??? làm cho ai đó bị nhột
Thôi đi má, thôi đi mẹ! = bảo ai đừng làm điều gì đó
Thôi hén!
Thơm = dứa, khóm
Thúi = hôi thối,
Thủng thẳng, Thủng thỉnh = từ từ
Thủy cục = công ty cấp nước
Thưa rĩnh thưa rãng = lưa thưa lác đác
Thước = 1 mét (Đo cho tui chừng 2 thước vải tui may cái áo dài cho sấp nhỏ)
Thưởng Lãm
Thưởng Ngoạn
Trà = Chè
Trả treo
Trăm phần trăm = cạn chén- (có thể gốc từ bài hát Một trăm em ơi –  uống bia cạn ly là 100%)
Trật chìa, trật đường rầy= sai giờ giấc ( Hẹn cho đã rồi không ra làm trật chìa hết trơn hết trọi)
Trển = trên ấy (lên trên Saigon mua đi , ở trển có bán đồ nhiều lắm)
Trọ trẹ = giọng nói không rõ ràng
Tròm trèm = cũng cở,  gần tới  (tròm trèm 70 tuổi rồi)
Trời thần đất lở
Trời ui ui = trời hơi tối tối
Trụi lũi = nhẵn thín ( cạo râu trụi lũi)
Trừ phi =
Trực thăng = máy bay lên thẳng
Tụi mình = chúng mình
Uể oải = mệt mỏi, lừ đừ
Um xùm
Ứa gan = chướng mắt
Ướt chèm nhẹp
Ướt như chuột lội (miền Nam hay nói sai là ướt như chuột lột)
Ván ngựa =giống cái sập bằng cây mà hay gọi là đi-văng, có ba tấm gỗ dày đặt lên 2 cặp chân, gọi là bộ ngựa ???
Vầy = như vậy (làm vầy nè = làm như vậy nè)
Vè xe = chắn bùn xe
Vỏ xe = lốp
Xả láng sáng về sớm = Cứ thoải mái không lo gì hết
Xà ích ( Sãis) có nghĩa là Thằng đánh xe, (1930 – không sử dụng nữa từ khi có xe hơi)
Xà lỏn, quần cụt = quần đùi
Xà quần gốc K'mer
Xài = dùng, sử dụng
Xảnh xẹ, Xí xọn = xảnh xẹ = làm điệu
Xe Cá = giống xe thổ mộ nhưng không có mui, dùng để chở hàng, không chở người. Xem thêm: xe cá
Xe ba gác = xe ba bánh dùng để chở đồ , xe ba gác máy ( như xe ba gác nhưng gắn thêm máy chứ không đạp)
Xe cam nhông = xe tải
Xe đò = xe chở khách, tương tự như xe buýt nhưng tuyến xe chạy xa hơn ngoài phạm vi nội đô (Xe đò lục tỉnh)
Xe Honda = xe gắn máy ( có một thời gian người miền Nam quen gọi đi xe Honda tức là đi xe gắn máy – Ê! mầy tính đi xe honda hay đi xe đạp dậy?)
Xe hơi = Ô tô con
Xe nhà binh = xe quân đội
Xe ôm
Xe thổ mộ
Xẹp lép = lép xẹp, trống rổng ( Bụng xẹp lép – đói bụng chưa có ăn gì hết)
Xẹt qua = ghé ngang qua nơi nào một chút (tao xẹt qua nhà thằng Tám cái đã nghen – có thể gốc từ sét đánh chớp xẹt xẹt nhanh)
Xẹt ra – Xẹt vô = đi ra đi vào rất nhanh
Xí = hổng dám đâu/nguýt dài (cảm thán khi bị chọc ghẹo)
Xi nhan = ra hiệu (gốc từ tiếng Pháp: signal)
Xí xa xí xầm, xì xà xì xầm, xì xầm= nói to nhỏ
Xía = chen vô (Xí! cứ xía dô chiện tui hoài nghen! )
Xĩa răng = không đủ chi phí (Làm muốn chỏng mông mà hổng đủ xĩa răng nữa)
Xĩa xói = châm chọt
Xiên lá cành xiên qua cành lá = câu châm chọc mang ý nghĩa ai đó đang xỏ xiên mình ???? (gốc từ bài hát Tình anh lính chiến- Xuyên lá cành trăng lên lều vải)
Xiết = nổi ( chịu hết xiết = chịu hổng nổi = không chịu được)
Xỏ lá ba que = giống như chém dè (vè), tuy nhiên có ý khác là cảnh báo đừng có xen vào chuyện của ai đó trong câu: "đừng có xỏ lá ba que nhe mậy"
Xỏ xiên = đâm thọt, đâm bị thóc chọc bị gạo,… (ăn nói xỏ xiên)
Xú chiên = áo lót nữ – gốc tiếng Pháp
Xì líp = quần lót
Xụi lơ
Xưa như trái đất, hồi nẩm, cái thời ông Cố ông Sơ ông Sờ ông Sẩm = xua thiệt là xưa
Xưa rồi diễm = chuyện ai cũng biết rồi (gốc từ tựa bài hát Diễm xưa TCS)
Y chang, Y đúc, Y khuông, y bon = giống nhau

Author Name

Biểu mẫu liên hệ

Name

Email *

Message *

Powered by Blogger.