July 2015

Ở Nhật có một cuốn sách khá nổi tiếng về Marketing là 「実践マーケティング戦略」-chiến lược Marketing thực tế- của tác giả 佐藤義典- Sato .

Phần đầu, tác giả đã đề cập đến công cụ marketing Basics. Phần này, tác giả tiếp tục với 3 yếu tố còn lại: Mindflow của khách hàng, Độ sâu và rộng của nhu cầu, Product flow.



MindFlow của khách hàng

Mindflow là tâm lý của khách hàng trên con đường tiếp cận đến sản phẩm, mua và sử dụng. Mindflow của khách hàng có bảy bước cơ bản: Nhận diện, có quan tâm, hành động, so sánh, mua hàng, sử dụng và ưa dùng. Ưa dùng sản phẩm là mục đích cuối cùng của bất cứ chiến lược marketing nào.

Chỉ cần dừng lại ở bất cứ giai đoạn nào, khách hàng sẽ không tiến xa thêm nữa. Do đó công ty phải làm sao để khách có trải nghiệm tốt ở cả bảy bước. Cần làm rõ các bước, nếu bước nào có vấn đề, cần tập trung giải quyết ở ngay bước đó.

Đây là một ví dụ về một mindflow khi khách đi mua sách:

Nhận diện: Khách hàng vào cửa hàng sách và nhìn qua một vài cuốn sách.
Quan tâm: Họ quan tâm đến một cuốn marketing do nó có tựa đề hấp dẫn.
Hành động: Nâng cuốn sách đó lên xem, rồi tìm kiếm thông tin tác giả trên mạng
So sánh: So sánh cuốn sách đó với những cuốn sách marketing có liên quan khác.
Mua: Sau khi xem xét thấy cuốn sách đó có giá cũng có vẻ tốt. Cửa hàng lại cho phép trả bằng credit card. Khách quyết định mua.
Sử dụng: Khách có thể đọc nó hàng ngày trên tàu vì cuốn sách nhỏ gọn.
Ưa dùng: Nội dung hay, thiết thực, đọc đến mấy lần cũng vẫn hay.



Để có được đánh giá chi tiết về mức độ thành công của chiến lược, bạn cần có đánh giá về từng bước trong mindflow. Chẳng hạn về nhận diện, bạn cần đo tỷ lệ nhận diện sản phẩm, tức là tỷ lệ khách hàng nhìn thấy nó. Trong số các khách hàng nhìn thấy, bạn cũng cần biết có bao nhiêu phần trăm quan tâm đến sản phẩm. Với một số lượng người quan tâm như vậy, bạn xem xem bao nhiêu người sẽ “hành động”, chẳng hạn như liên lạc với cửa hàng tìm kiếm thông tin về sản phẩm, xem sản phẩm thử,…

Trên con đường đến với sự ưa chuộng, khách hàng cũng sàng lọc, lựa chọn nhiều. Họ có thể biết đến 100 cuốn sách, chú ý đến 10 cuốn, chỉ xem 4 cuốn, so sánh 4 cuốn với nhau, mua 3 cuốn, sử dụng 2 cuốn và 1 cuốn chỉ đọc vài trang, cuối cùng chỉ hơi thích một cuốn. Sản phẩm là kẻ sống sót trong chuỗi sàng lọc của khách hàng, nên cần phải trang bị vũ khí mạnh cho nó.

Làm gì với Mindflow?

Nhìn từ phía khách hàng, mindflow cho công ty biết bạn đang có vấn đề ở đâu, khách hàng chỉ đi đến giai đoạn nào khi tiếp cận sản phẩm, để từ đó đưa ra được trải nghiệm hoàn hảo. Nếu không phân tích mindflow, không hiểu được vì sao khách không mua hàng thì cũng khó mà đưa ra cách giải quyết phù hợp.


Trong 7 bước trên, hãy chọn ra bước cản trở khách mua hàng của bạn nhất, coi đó là nút thắt quan trọng nhất cần được cải thiện. Bạn cần đổ nhiều nguồn lực như thời gian, nhân viên, quảng cáo…cho chỗ thắt nút đó. Điều đó cũng có nghĩa bạn phải phân phối lại nguồn lực cho các bước khác. Tuy nhiên đây là điều cần thiết để tối ưu hóa nguồn lực.

Trong trường hợp có nhiều phân khúc khách hàng, với mỗi phân khúc, bạn nên chọn một mindflow, sau đó đưa ra đánh giá và cải thiện riêng cho nó.

Bạn cần tạo ra quảng cáo để tăng mức độ nhận diện lên, đồng thời thông báo cho khách biết bạn đã giải quyết nút thắt trong mindflow. Khi tạo quảng cáo, có hai thứ bạn cần quan tâm nhất: nội dung quảng cáo (nói như thế nào) và cách thức truyền tải (truyền đi bằng hình thức gì, qua kênh nào). Nội dung mang tính chiến lược, cách thức truyền tải mang tính chiến thuật hơn. Nội dung cần rõ ràng, nêu đúng nút thắt trọng tâm. Cách thức truyền tải cần ấn tượng, dễ đọng lại tâm trí người xem.

Độ sâu và rộng của nhu cầu

Nếu chỉ dựa vào doanh thu của sản phẩm thì bạn sẽ không hiểu hết sức mua của khách hàng. Có những khách hàng mua ít lần nhưng mỗi lần mua thì mua nhiều. Có những khách hàng mua nhiều lần nhưng mỗi lần mua lại mua ít. Do đó cần phần loại khách hàng dựa theo cả số lần mua và số lượng mua mỗi lần.


Nhu cầu của một sản phẩm được gọi là rộng nếu như nhiều người cần đến nó, gọi là hẹp nếu nó chỉ được ưa chuộng bởi số ít khách hàng. Việc mở rộng nhu cầu là hành động nhắm tới những khách hàng mới.

Độ sâu của nhu cầu thể hiện thông qua mức độ trung thành của người mua. Có những sản phẩm chỉ để phục vụ một tầng lớp khách hàng khó tính: giá thành cao, chất lượng siêu tốt, hiếm. Khách hàng mua loại sản phẩm này thường tiếp tục mua trong những lần tới. Nhu cầu càng sâu, giá của sản phẩm càng không thành vấn đề.

Từ độ sâu và độ rộng của nhu cầu, có thể chia sản phẩm ra làm 4 loại: sâu rộng, sâu hẹp, nông rộng, nông hẹp.

Đa số sản phẩm rơi vào hai loại, sâu hẹp và nông rộng. Tức là một sản phẩm được yêu thích bởi càng nhiều người thường là sản phẩm có ít tính đặc trưng, có nhiều điểm chung với các sản phẩm của đối thủ, nên khách hàng có xu hướng ít trung thành hơn. Còn một sản phẩm được chế tạo riêng cho một phân khúc nhỏ, mức độ hài lòng của phân khúc đó cao hơn và họ trung thành hơn.

Nên chọn nhu cầu sâu hay rộng?

Khi hoạch định chiến lược, bạn cần xác định độ sâu và rộng của sản phẩm: phục vụ khoảng bao nhiêu khách hàng, tần suất mua của khách hàng đó.

Hiểu về độ sâu độ rộng có thể giúp bạn định vị thương hiệu của mình tốt hơn. Bạn có thể biến một sản phẩm trở thành đại trà nếu nó có độ rộng tăng nhanh, trung tính, được ưa dùng bởi nhiều người hơn. Trong trường hợp độ sâu của nhu cầu tốt hơn trong khi độ rộng không đổi, hãy xây dựng thật chắc chắn thương hiệu đối với các khách hàng hiện tại và phát triển sản phẩm mới cho các khách hàng khác.

Độ sâu và rộng của nhu cầu sản phẩm phụ thuộc vào đối thủ cạnh tranh. Khi nhu cầu sản phẩm sâu, nó thường ít bị cạnh tranh hơn. Còn sản phẩm có nhu cầu rộng, nó chịu cạnh tranh khốc liệt hơn từ các đối thủ. Nếu volume thị trường không thể tăng, một công ty lớn mạnh hơn đồng nghĩa với những công ty khác suy yếu đi.

Làm sâu và mở rộng nhu cầu thế nào?

Có nhiều cách để làm sâu thêm nhu cầu sản phẩm. Bạn có thể chế tạo sản phẩm với đặc tính được ưa chuộng bởi số ít khách hàng. Sản xuất bằng chất liệu hoặc cách thức đặc biệt, giúp cho khách hàng sở hữu chúng cảm thấy tự hào. Hoặc là tạo ra sản phẩm phục vụ cách nghĩ, niềm tin của thiểu số. Bạn cũng có thể chăm sóc, chia sẻ kinh nghiệm với khách hàng, biến họ trở thành fan. Ngoài ra, sẽ rất tốt nếu bạn tạo được cộng đồng sử dụng sẩn phẩm đó, tổ chức sự kiện, giao lưu, chia sẻ niềm vui, hạnh phúc khi sử dụng sản phẩm.


Về cách làm rộng thêm nhu cầu, hay thường gọi là mở rộng thị trường, bạn cần tìm kiếm khách hàng mới thông qua tăng cường mức độ nhận diện và quan tâm đến sản phẩm. Khi thiết kế sản phẩm, bạn cần chú ý để nó thật sự dễ sử dụng, ai cũng dùng được: chế tạo nắp để dễ mở, có thể học cách sử dụng trong vòng 10 giây…Thêm công dụng vào sản phẩm cũng giúp sản phẩm bán được tới nhiều người hơn.

Nếu muốn mở rộng đối tượng khách hàng, cần phải quan tâm đến chiến lược giá. Vì sản xuất hàng loạt giúp bạn tiết kiệm chi phí. Đối thủ của bạn cũng có lợi thế đó. Do đó, cuộc chiến giá là không thể tránh khỏi, bạn phải chuẩn bị cho điều này.

Ngược lại, làm sâu hơn nhu cầu sản phẩm thì phải quan tâm đến giá trị gia tăng. Bởi vì bạn ít đối thủ, việc của bạn là làm hài lòng tối đa khách hàng hiện tại.

Nên quảng cáo sản phẩm sâu và rộng thế nào?

Cách thông điệp bán hàng cũng tùy thuộc vào độ sâu rộng của sản phẩm.

Nếu bạn theo đuổi đám đông, đại trà, một cách tiếp cận tốt là tạo tâm lý lo lắng cho khách hàng nếu họ không sử dụng sản phẩm của bạn. Chẳng hạn, nếu khách không sử dụng bột giặt của bạn, các vết bẩn sẽ làm họ khó chịu cả ngày. Lý do là vì, người ta dễ phản ứng với nỗi lo lắng hơn.

Nhưng nếu bạn bán cho một số ít người, bạn phải khiến cho họ thấy, sở hữu sản phẩm của bạn tạo ra sự khác biệt, khiến họ vui vẻ, tự hào. Cảm giác lo lắng trong thông điệp có thể phá hỏng thương hiệu của bạn.

Product Flow



Khi mua hàng, khách hàng thường gặp các trở ngại tâm lý.

Có một quy luật gọi là quy luật quán tính: Nếu một khách hàng từng mua hàng của công ty một lần, khả năng cao là họ sẽ mua của hãng đó trong những lần tiếp tới. Lý do là khi đó, trở ngại tâm lý đã giảm xuống.

Nếu khách được người quen giới thiệu thì khả năng họ mua hàng cũng cao hơn. Do lòng tin đối với người quen giảm trở ngại tâm lý.

Liên quan đến trở ngại tâm lý, một sản phẩm, dịch vụ khi ra đời thường theo một flow:

Sản phẩm, dịch vụ thử nghiệm miễn phí: Sản phẩm dù có lạ lẫm thế nào, nếu nó miễn phí thì cũng có một sức hút đặc biệt. Các sản phẩm miễn phí này được tạo ra để giúp khách hàng làm quen với tính năng, cũng như nhận diện thương hiệu.
Sản phẩm có thể bán được: là sản phẩm mà khả năng cao khách hàng sẽ bỏ tiền ra mua. Một sản phẩm giá rẻ, chất lượng vừa phải như Kindle là một ví dụ. Sản phẩm này nhằm khuyến khích khách mở hầu bao.
Sản phẩm muốn bán: Sản phẩm mà bạn muốn kiếm lời từ nó, mang lại lợi nhuận cao. Ví dụ như là sách điện tử. Đó là thứ bạn muốn bán để thu lại tiền bù vào tiền lỗ của Kindle.

Khi giới thiệu sản phẩm mới, nhà cung cấp ban đầu tung ra sản phẩm dùng thử, hoặc có thể bán được nhằm lôi cuốn khách hàng, tạo lòng tin, giúp khách quen với thương hiệu sản phẩm. Sau đó tung ra sản phẩm muốn bán. Chẳng hạn như Amazon cho ra mắt dịch vụ chuyển phát nhanh Prime. Ban đầu cho dùng thử hoàn toàn, sau đó họ tính nguyên cước phí.

97% các giám đốc marketing nghĩ rằng phải tạo ra những điều mới mẻ chưa từng có để thành công và 2/3 trong số họ thấy rất khó khăn để bắt kịp những thay đổi này.

Trong nhịp sống hối hả, vai trò của Marketing càng trở nên phức tạp hơn giữa sự nhiễu loạn từ mạng xã hội, truyền thông, sự gia tăng những thiết bị di động, sự thay đổi thói quen xem Tivi. Để làm chủ xu thế này, các doanh nghiệp phải chuyển hướng chú trọng đến việc kể chuyện.

Các Marketer hiện nay không còn bị giới hạn hoạt động chỉ trong một số kênh truyền thông hay thiết bị nhất định nữa. Họ thường xuyên cần những kỹ năng mới để kiểm soát được sự gia tăng của các thiết bị và kênh thông tin tiện ích qua đó mọi người kết nối ( ứng dụng điện thoại di động, web, mạng xã hội,...)

Truyền đi một thông điệp thương hiệu đòi hỏi sự ứng biến đối với mọi loại hình trên, tùy thuộc vào từng phương thức và đối tượng. Tuy nhiên có một thứ bất biến trong suốt quá trình:

Marketing B2B trong lĩnh vực công nghệ đang thực sự gặp khó khăn trong việc làm thế nào để tránh đi sâu vào chi tiết sản phẩm và chỉ đơn giản là kể một câu chuyện.


Luôn có một niềm kiêu hãnh rõ ràng khi diễn thuyết về lịch sử công ty, hay niềm đam mê công nghệ ẩn sâu trong bản thân sản phẩm nhưng một giải pháp công nghệ chỉ thực sự tồn tại khi bản thân nó mang một câu chuyện, và với tư cách một người truyền bá công nghệ, điều này thể hiện ở những thành công của đối tác và bằng cách nào một sản phầm thực sự tạo được khác biệt đối với khách hàng, có tác động châm ngòi cho trí tưởng tượng và khơi gợi nên các cuộc thảo luận.

Điều này có thể khá phổ biến, và tôi đã làm việc với những công ty công nghệ khá lâu, nhưng cả những doanh nghiệp lâu năm hay mới hoạt động đều đang rơi vào cùng một cái bẫy.

Tự hào khoe tên tuổi những nhà đầu tư đổ tiền vào bạn cũng không nói cho tôi biết những gì mà bạn có khả năng giải quyết- đây là một vấn đề lớn cho những doanh nghiệp mới trên thị trường, nó chỉ cho tôi biết rằng bạn đang đốt tiền của ai, chứ không một chút nào về lý do bạn tồn tại

Những bản giới thiệu nặng tính kỹ thuật có thể sẽ khiến các kiến trúc sư hứng thú, và thể hiện được bạn đã bỏ bao nhiêu công sức vào sản phẩm, nhưng khi doanh nghiệp trả thù lao thì bạn đã mất lượng khách mua rồi- bạn yêu sản phẩm của mình nhưng khi giới thiệu bản dùng thử, hãy khiến nó dễ hiểu và thực tế, chứ đừng biến nó thành một khóa đào tạo với những mũi tên và những cú click chuột.
Marketing cho sản phẩm vẫn còn một chặng đường dài trước khi tình hình trở nên khả quan hơn, hãy ngừng sử dụng những cụm từ rắc rối chung chung, và tạo ra những nội dung hấp dẫn cho một nhóm đối tượng lớn hơn- không ai quan tâm đến màu sắc của của giao diện người dùng mới, hay nếu bạn có đang sử dụng thuật ngữ mới nhất của Gartner (công ty tư vấn và nghiên cứu công nghệ thông tin hàng đầu thế giới) không nếu bạn không thể tham gia mặt đối mặt với tôi trong thông điệp của mình.


Guy Kawasaki đã viết một đoạn rất hay về vấn đề này, trong khi những ý tưởng này thông thường chỉ phổ biến trong lĩnh vực truyền bá, đó còn là việc mà mọi doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghệ cùng cái cách họ quảng bá bản thân và những sản phẩm của mình, cần bắt đầu trở nên thực tế hơn.

3 lý do bạn cần kể 1 câu chuyện

Kể một câu chuyện thể hiện sự nhận thức về việc thương hiệu được cảm nhận thế nào trên thị trường, những kiến thức công nghệ phía sau sản phẩm, sự khác biệt ra sao, và mối quan hệ với trải nghiệm của khách hàng.

Những câu chuyện cũng cho phép bạn thể hiện một quan điểm. Điều quan trọng là đưa ra những quan điểm kể cả nếu chúng gây ra tranh cãi, bởi điều này giúp marketing truyền tải được ý thức về tính cấp thiết của câu chuyện. Việc không đưa ra một quan điểm đồng nghĩa với sự đam mê ít ỏi dành cho sản phẩm của mình. Cả khách hàng và nhân viên đều có thể cảm nhận rõ điều này. Và khách hàng thường đánh giá cao những quan điểm khiến họ phải suy nghĩ.

Vấn đề cuối cùng là thông qua những câu chuyện đó để kết nối với các bộ phận khác trong tổ chức và với khách hàng. Điều này cho phép marketing kết nối tốt hơn bộ phận kinh doanh trong nỗ lực truyền tải một thông điệp nhất quán và rõ ràng hơn. Thông điệp này tác động ngược trở lại tiến trình phát triển sản phẩm, cho phép sự cải tiến phù hợp và thích ứng với những nhu cầu khác nhau của thị trường.

Chẳng có gì trong những điều trên là quá phức tạp, nhưng vẫn luôn có một lỗ hổng rõ rệt trong cách thức mà lĩnh vực công nghệ đang định hình chiến lược marketing.


Nhưng có lẽ điều quan trọng hơn là nếu câu chuyện của bạn không thể cho tôi biết những điều sau đây:

Lý do sản phẩm của bạn tồn tại,

Bằng cách nào sản phẩm của bạn đáp ứng một nhu cầu, và bằng cách nào tạo nên khác biệt,

Những giá trị trong việc sử dụng giải pháp hay dịch vụ đó đến từ đâu,

Đối tượng chủ yếu nào mà sản phẩm sẽ hướng tới, đối tượng nào đã nhận được những tiện ích từ sản phẩm,

Khi nào tôi có thể trải nghiệm sản phẩm, và khi nào tôi sẽ cảm nhận được khác biệt

Thì tốt nhất nên ngừng việc bạn đang làm để nghĩ lại đi.

Bởi nếu tôi không thể hiểu câu chuyện của bạn thì chẳng ai trong số những người đang ngồi trước mặt bạn hiểu đâu.

Như đề cập từ  Phần 1 về việc hiểu quá trình mua sắm của người tiêu dùng trước khi tiếp cận họ trên các kênh truyền thông, Phần 2 sẽ tiếp nối bằng việc giới thiệu những kênh Media mới mà các doanh nghiệp có thể áp dụng trong năm 2015 này để tiếp cận khách hàng mục tiêu của mình một cách sáng tạo và hiệu quả trên các kênh truyền thông.

Local Based Marketing – Wifi Ads

Wifi Ads là một phương thức tiếp cận khách hàng tại chính nơi họ đến, cụ thể là tại các siêu thị, trường học, nhà xe hay sân bay,.. nơi mà những khách hàng ngày nay trong thời gian rảnh rỗi có xu hướng thường mở điện thoại hay tablet của mình, dò tìm wifi hoặc bật 3G để truy cập Internet. Wifi Ads cho phép người dùng tại các địa điểm này truy cập wifi một cách nhanh chóng và miễn phí , và quảng cáo sẽ được hiển thị ngay trước lúc họ truy cập vào Internet.



Case study một chiến dịch áp dụng Wifi Ads


Remarketing – Cũ mà mới

Remarketing là phương thức hiển thị lại một thông điệp quảng cáo đến với những người đã truy cập vào website hay xem một sản phẩm cụ thể nào đó trên website của bạn, trên những website mà sau khi rời trang web của bạn họ đang truy cập vào. Hình thức quảng cáo này đã được triển khai khá phổ biến trước đây như một dạng của Display Marketing. Tuy nhiên, cùng với tầm quan trọng của việc tối ưu hoá quảng cáo theo từng đối tượng mục tiêu và từng ngữ cảnh để đạt được kết quả tốt nhất, Remarketing đang dần được tách riêng thành một dịch vụ mới, với những công cụ mới và nhà cung cấp mới, điển hình là Criteo.


Local Awareness Ads – Giải pháp cho các cửa hàng Offline

Bạn có 1 cửa hàng tại quận 1 và làm sao để tạo nhận biết cũng như thu hút những người sống tại quận 1 hay những người thường xuyên ghé quận 1 làm việc hay vui chơi? Hãy thử áp dụng Local Awareness Ads của Facebook – hiện đã được khai thác tại Việt Nam.


Media mới cũng chính là phần nhận được nhiều sự quan tâm và hào hứng từ người tham gia trong buổi Workshop “Approach Customer on Digital Channel” của Moore Corporation ngày 14/07 vừa qua, hứa hẹn sẽ chia sẻ chuyên sâu và cập nhât thêm nhiều Media mới trong những buổi Workshop tiếp theo.

Tách cà phê kết nối mọi người – đó chính là ý tưởng cho chiến dịch hoàn toàn mới "Instant connections" của Nescafe cùng với công ty quảng cáo OglivyOne ở Frankfurt.

Vào một buổi sáng như mọi ngày ở Berlin, hàng trăm người đang chờ đợi đèn giao thông chuyển sang màu xanh để băng qua đường. Đó là khi họ nhận thấy một chiếc máy café tự động mới của Nescafe được thêm vào cổng của cột đèn trên vỉa hè “mời họ nhấn nút và sử dụng sản phẩm”. Không có gì đã xảy ra khi họ làm như vậy. Nhưng khi họ nhìn thấy mặt của 1 người lạ, đó là người cũng đang sử dụng chiếc máy café tự động đối diện lề đường thì chiếc tách café hiện ra.


Vậy là công thức của Nescafe: nếu hai người sử dụng máy café cùng một lúc, cùng ấn nút thì hai cốc café từ hai máy sẽ hiện ra. Nếu thiếu 1 trong hai bên thì sẽ chẳng có món quà nào dành cho họ.

Cafe luôn là một thói quen, một niềm yêu thích của người châu Âu vào mỗi sáng để bắt đầu một ngày làm việc. Hãy tưởng tượng sự ngạc nhiêm và yêu thích của họ đến cỡ nào khi trên đường nhận được tách café miễn phí cùng với một cuộc gặp gỡ ngắn ngủi với một người lạ mặt – người cùng có chung một "trách nhiệm" để tạo ra tách café đó.

Mỗi người ở mọi lứa tuổi đã trao nhau một lời chào, một nụ cười, một cái bắt tay, thưởng thức ly cà phê của mình và bắt đầu một ngày mới với một niềm vui nhỏ.


Tách café của Nescafe đã kết nối mọi người, mang mọi người đến gần nhau hơn, như đúng tên chiến dịch “ Kết nối tức thì/ Kết nối trong từng khoảnh khắc”. Chiến dịch đã không tập trung vào việc quảng bá về chất lượng và khẩu vị về sản phẩm có vẻ Nescafe đã thừa tự tin về nhãn hiệu và đặc tính sản phẩm của mình, cách mà Nescafe muốn hướng đến là Emotion, phương thức cao hơn để chiếm lấy tình cảm cũng như thiện cảm của mọi người.

Một ý tưởng sáng tạo tuyệt vời. Suốt ngày quay hôm đó, Nescafe đã nhận được 33 cái chạm tay, 285 cái vẫy tay, 839 nụ cười và vô số những cuộc hội thoại giữa những người cùng nhận được tách café miễn phí. Chỉ trong một ngày, ly café đã tạo ra được 318 sự kết nối giữa mọi người.


Đối với họ kết thúc chiến dịch lại là sự khởi đầu mới “It all starts with a Nescafe” – cho thương hiệu Nescafe và cho cả những khách hàng.

Xây dựng thương hiệu là một trong những hoạt động quan trọng của doanh nghiệp (DN), đánh giá mức độ thành côngvà vị trí của DN trên thương trường.

Xây dựng chữ tín...

Thương hiệu có thể tạo nên cuộc chiến trong tâm trí khách hàng và chính khách hàng quyết định sự thành công hay thất bại của một thương hiệu. Đó chính là lý do các thương hiệu thành công trên thế giới như Nike, Pepsi, Toyota, Sony... rất ít đề cập đến đặc điểm và lợi ích của sản phẩm mà tập trung xây dựng và củng cố một vị trí đặc biệt trong trái tim khách hàng.

Để chiếm được trái tim khách hàng cần có chữ tín. Thương hiệu mạnh nhờ chữ tín và cũng chính chữ tín làm nên thương hiệu. Sự trung thành của khách hàng phụ thuộc vào việc DN có giữ được chữ tín về chất lượng giá trị thương hiệu.

Sự trung thành chỉ có thể có được sau những lần trải nghiệm tích cực, tạo mối quan hệ tin tưởng lâu dài giữa khách hàng và thương hiệu. Khi thương hiệu có những khiếm khuyết cũng đồng nghĩa với việc đổ vỡ niềm tin nơi khách hàng.



Một số công ty cho rằng, bất luận trước đây thương hiệu của họ được tạo dựng từ nền tảng nào cũng có thể thay đổi và hoạt động tốt. Nhiều DN thậm chí còn lừa dối khách hàng và phải trả giá đắt cho sự bội tín khi khách hàng chuyển sang dùng sản phẩm của đối thủ.

Câu chuyện của Mercedes là một ví dụ. Là thương hiệu nổi tiếng và lâu đời nhưng Mercedes đang mất dần khách hàng trung thành vì chất lượng xe giảm và không còn đáng tin cậy như trước. Tờ Financial Times nhận định, “ngay cả các bác tài taxi ở Đức cũng không còn ủng hộ Mercedes như trước nữa”. Trong khi đó, Lexus ngày càng phát triển mạnh nhờ chất lượng dịch vụ đảm bảo - một yếu tố cơ bản nhất để tạo lòng tin nơi khách hàng.

Tương tự, BMW là thương hiệu có rất nhiều khách hàng trung thành vì chất lượng và động cơ xe luôn được cải thiện, Hãng cũng luôn tôn trọng những cam kết. Vì thế, dù những kiểu xe gần đây có hình thức không được hấp dẫn lắm nhưng doanh số của Hãng vẫn phát triển đều đặn và sự trung thành của khách hàng đang mang lại lợi ích khá lớn cho BMW.

Hiểu được những lý do giúp thương hiệu tạo được niềm tin là điều quan trọng nhất để giữ khách hàng, và DN nào không hiểu khách hàng cũng có nghĩa tự đẩy mình vào tình thế nguy hiểm.

Trên thực tế, nhiều hãng thời trang liên tục thay đổi hướng phát triển của thương hiệu để thu hút khách hàng nhưng kết quả cuối cùng là làm cho thương hiệu bị lu mờ vì trang phục na ná nhau. Ai cũng biết, thời trang luôn thay đổi nhưng phải thay đổi dựa trên những gì đã cam kết. Bởi nhãn hiệu đính kèm sản phẩm chưa đủ sức mạnh thuyết phục người tiêu dùng mua sản phẩm, mà những yếu tố cần có khác là chất liệu, kiểu dáng, sự độc đáo và sáng tạo.

Có thể thấy, một thương hiệu gắn liền với tên tuổi cá nhân nào đó vẫn có thể tồn tại ngay khi người tạo ra nó đã qua đời. Chanel là một ví dụ. Coco Chanel qua đời từ lâu nhưng dưới sự dẫn dắt của Karl Lagerfeld vào thập niên 80, Chanel vẫn giữ được những cá tính độc đáo, giá trị và sự sáng tạo. Lagerfeld đủ sáng suốt để biết nên gắn kết thương hiệu Chanel với tên tuổi của mình và từ đó đến nay, Chanel luôn tạo ra được những sản phẩm mới hiện đại nhưng vẫn phảng phất tinh thần của người sáng lập Coco.

...Và sự khác biệt

Bên cạnh chữ tín, xây dựng thương hiệu cần tạo ra sự khác biệt mới có thể thành công. Thương hiệu cần có những đặc trưng riêng nhưng không nên tuyên bố những điều không thể thực hiện được.

Có một bài học sơ đẳng doanh nhân nào cũng hiểu nhưng không phải ai cũng lưu tâm: Thành công của DN đến từ khách hàng. Thương hiệu mạnh không phải là các logo đẹp đẽ mà là chứng chỉ cho những món hàng chất lượng tốt với mức giá cạnh tranh. Các thương hiệu thành công trong thị trường hàng tiêu dùng đều có mức giá rẻ hơn so với đối thủ.

Dù Apple có nổi tiếng đến đâu, Steve Jobs có trình diễn tuyệt vời đến thế nào trong các buổi giới thiệu sản phẩm thì iPhone và iPad cũng không thể thành công đến thế nếu chúng không rẻ hơn sản phẩm của đối thủ cạnh tranh.





Chất lượng một món hàng hiện nay được đánh giá tổng thể từ rất nhiều mặt, bao gồm cả thời hạn giao hàng, độ ổn định, thiết kế mẫu mã, chất lượng hậu mãi, hỗ trợ kỹ thuật, khả năng tương thích... Đối thủ của Apple rất khó để làm ra một thứ có chất lượng như iPhone, iPad với mức giá như vậy, họ buộc phải cạnh tranh ở những thị trường hẹp hơn.

Giống như nhiều thương hiệu điện tử ở Việt Nam, sản phẩm của Apple được lắp ráp ở Trung Quốc nhưng Apple nắm toàn bộ công nghệ, từ phần cứng đến phần mềm, các nhà máy ở Trung Quốc chỉ là xưởng làm thuê.

Trong khi đó, DN Việt Nam chỉ lựa chọn sản phẩm từ những mẫu mã người ta đưa cho, mang về láp ráp, gắn logo lên, tiêu thụ ở một phân khúc thị trường dễ tính.

Mặt khác, những đơn hàng của Apple có số lượng lên đến hàng triệu sản phẩm, còn DN Việt Nam chỉ mua vài ngàn, thậm chí vài trăm sản phẩm cho một đơn hàng. Sự khác biệt về giá giữa những đơn hàng này là rất lớn và chính nó tạo ra lợi nhuận khổng lồ của Apple.

Một số cách giúp thương hiệu luôn vững mạnh là xác định rõ cốt lõi thương hiệu, diễn đạt tốt thương hiệu bằng những từ ngữ giàu cảm xúc và phải chắc chắn rằng DN có thể thực hiện được lời hứa thương hiệu của mình.

Và nhân viên chính là khách hàng quan trọng nhất của DN, là người gắn bó nhất với thương hiệu, vì thế phải chọn lựa nhân viên một cách cẩn thận và đảm bảo rằng họ hiểu cần phải làm việc, cư xử như thế nào đối với thương hiệu.

Điều quan trọng không kém là phải làm cho thương hiệu luôn tươi mới. Khi thời thế thay đổi thì thương hiệu cũng phải linh hoạt thích nghi nhưng đừng đánh mất thứ mà khách hàng quý trọng từ cốt lõi thương hiệu bền vững của DN.

Thương hiệu là cảm xúc, thế nên hãy tạo ra câu chuyện về thương hiệu, hãy nghĩ về câu chuyện mà mọi người nói về thương hiệu của mình và làm cách nào để tạo ra những câu chuyện đó.

Ngày nay, việc xây dựng thương hiệu là một quá trình lâu dài nhằm biến một khái niệm, hình ảnh thành một thực thể có sức thu hút mãnh liệt trong tâm trí người tiêu dùng. Khi đạt đến điều này, thương hiệu có thể tách rời hoàn toàn khỏi một sản phẩm, dịch vụ cụ thể để “sống” một cuộc sống riêng và trở thành “cỗ máy in tiền” cho chủ nhân của nó.

Với DN, xây dựng thương hiệu cũng chính là xây dựng sự phát triển bền vững và dài hạn. Mặc dù giá trị thương hiệu không được ghi nhận trong bảng cân đối kế toán nhưng là một tài sản vô giá của mỗi DN.

Hầu hết các Marketer ngày nay đều luôn trăn trở 3 câu hỏi trước mỗi chiến dịch truyền thông rằng: Khách hàng của tôi là ai? Họ đang làm gì trên Internet và Làm sao để tiếp cận họ? Đó cũng là vấn đề lớn được đưa ra bàn luận, chia sẻ và cùng nhau tìm ra giải pháp của gần 90 khách mời tham dự trong buổi Workshop “Approach Customer on Digital Media” do Moore Corporation tổ chức vào chiều 14/07 vừa qua.

Công nghệ làm thay đổi hành vi mua sắm

Theo Moore ước tính, khoảng 80% những người Việt Nam từ 15 – 34 tuổi, tại thành thị, truy cập Internet qua các thiết bị như smartphone, máy tính hay máy tính xách tay. Với các thiết bị di động, như smartphone, laptop, người tiêu dùng không chỉ kết nối với những người bạn xung quanh mình mà còn có thể kết nối với tất cả mọi người. Không chỉ với những thương hiệu quen thuộc mà với nhiều thương hiệu khác nhau. Họ có thể sữ dụng các thiết bị này đồng thời cũng với các phương tiện truyền thông khác như tivi, báo chí hay quảng cáo ngoài trời. Truy cập internet để tìm kiếm thông tin, giao tiếp với bạn bè, cũng như mua sắm trực tuyến tại nhà, quán café, nơi làm việc hoặc lúc di chuyển.

Sự phát triển của công nghệ và internet đã mang đến cho người tiêu dùng nhiều lợi ịch. Giúp người tiêu dùng nhanh chóng tìm thấy sản phẩm phù hợp cho mình và đưa ra quyết định mua sắm với đầy đủ thông tin. Cùng với đó, công nghệ và Internet cũng đã thay đổi hành vi mua sắm cùa người tiêu dùng.


Hành vi mua sắm của người tiêu dùng đã đảo ngược so với trước đây. Từ chỗ quan tâm nhiều về thương hiệu, ngày nay, người tiêu dùng thường bắt đầu với vấn đề mà họ gặp phải. Trước đây, họ tìm kiếm nhà cung cấp từ rất sớm, còn bây giờ, tìm kiếm nhà cung cấp nằm cuối trong qua quá trình mua sắm.Trước đây, cửa hàng đóng vai trò rất quan trọng, đây là nơi người tiêu dùng tìm giải pháp cho vấn đề của họ, tham quan, nghiên cứu sản phẩm khác nhau và được người bán tư vấn đề đưa ra quyết định mua sắm. Ngày nay, thông tin từ Internet, ý kiến của người dùng trước và mạng xã hội làm việc này.

Một điểm khác biệt rất quan trọng, sau khi mua, người tiêu dùng vẫn tích cực nghiên cứu về sản phẩm và có những mối quan hệ mới sâu sắc hơn với thương hiệu. Ví dụ, sau khi mua điện thoại di động Microsoft Lumia, người tiêu dùng sẽ tìm kiếm thông tin liên quan đến việc sử dụng, trải nghiệm sản phẩm trên website Microsoft.com/vi-vn/di-dong/ hoặc trên diễn đàn, nhóm có những người sử dụng điện thoại hệ điều hành Windows phone. Cập nhật thông tin mới trên website winphoneviet.com hoặc qua email Outlook từ Microsoft.



Vai trò của Internet trong quá trình mua sắm

Quá trình mua sắm gồm 5 giai đoạn: nhận thức nhu cầu, xem xét, đánh giá lựa chọn, mua sắm và sau mua. Theo khảo sát người tiêu dùng trực tuyến Việt Nam của Google 2015, Internet đóng vai trò sau trong các giai đoạn mua sắm:

Trong buổi đầu mua sắm, người tiêu dùng sử dụng Internet để tìm kiếm ý tưởng mua sắm (21% người tiêu dùng online), thường là để giải quyết một nhu cầu nào đó. Ví dụ: tìm kiếm tour du lịch đi Thái Lan, tìm những chiếc điện thoại chụp ảnh đẹp.

Sau khi định hình rõ ràng nhu cầu mua sắm và tìm thấy những giải pháp phù hợp với nhu cầu của mình, người tiêu dùng tiến hành xem xét sản phẩm sâu hơn, đồng thời, khám phá các sản phẩm liên quan (39%). Tại giai đoạn này, người tiêu dùng sẽ loại bỏ một số thương hiệu và xem xét thêm khoảng 1-2 thương hiệu mới (theo nghiên cứu của McKinsey)


Trong giai đoạn đánh giá, Internet được sử dụng để so sánh các lựa chọn với nhau (51%), như so sánh tính năng sản phẩm, giá, chính sách đi kèm,…tìm kiếm bài đánh giá, quan điểm hay lời khuyên từ người dùng khác (53%) và chuẩn bị thực hiện giao dịch (53%) như tìm kiếm nơi bán, địa điểm/chỉ đường, đặt hàng,…Nhu cầu nghiên cứu trước mua kéo dài đến sát lúc giao dịch. Có đến 48% người tiêu dùng tiếp tục nghiên cứu sản phẩm chỉ vài giờ trước khi mua.

Tại giai đoạn mua, có khoảng 18% người tiêu dùng mua sản phẩm qua Internet. Như vậy, phần lớn người tiêu dùng Việt Nam vẫn thích mua sản phẩm tại cửa hàng hoặc đặt hàng online, sau đó đến cửa hàng nhận sản phẩm.

Sau khi mua, 18% người tiêu dùng tiếp tục tìm hiểu sâu về sản phẩm qua Internet. 28% người tiêu dùng chia sẽ trải nghiệm mua sắm qua qua mạng xã hội và 15% đưa ra các bình luận, đánh giá về sản phẩm. Điều này thể hiện rõ nét sự tác động qua lại giữa những người tiêu dùng với nhau trong quá trình mua sắm. Họ tham khảo thông tin từ người dùng khác và cung cấp thông tin để người khác tham khảo.

Một cuộc khảo sát mới đây của Luxury Institute cho biết đa số người giàu có vẫn lựa chọn mua sắm theo cách "cổ điển" đó là trực tiếp tới cửa hàng lựa chọn món đồ, nhận được những chăm sóc và tư vấn của nhân viên bán hàng thay vì phương thức mới.

khách hàng cao cấp vẫn ưa thích thói quen mua sắm "cổ điển" hơn

Khảo sát này được thực hiện với 1.600 người có thu nhập cao theo tiêu chí ít nhất 150 ngàn USD một năm cho việc mua sắm về thói quen mua sắm của họ. Kết quả cho thấy rất ít khách hàng giàu có sự tìm hiểu chính xác về thứ mình muốn mua trước khi tới cửa hàng để mua đồ. Thay vào đó, họ thích tới cửa hàng, ngắm nghía mọi thứ, nhận được sự chăm sóc và tư vấn của các nhân viên bán hàng trực tiếp tại của hàng.

"Đa số những người đang hoạt động trong lĩnh vực xa xỉ đều có xu hướng cho rằng thói quen mua sắm của khách hàng đã thay đổi, họ dành nhiều thời gian để tìm hiểu trên mạng hơn là phụ thuộc vào những ảnh hưởng tại cửa hàng khi quyết định mua một món đồ," bà Milton Pedraza, người đứng đầu Luxury Institute phân tích."Nhưng cuộc khảo sát này đã đưa ra một câu trả lời có tính định lượng rằng thực tế không phải như vậy. Cơ hội để bạn bán được một món hàng cho khách hàng giàu có vẫn phụ thuộc rất nhiều vào sự chuyên nghiệp, uy tín và không khí bạn tạo ra trong cửa hàng của mình."


Lấy ví dụ như khi mua đồ trang sức, gần nữa số khách hàng nữ không có bất cứ sự tìm hiểu nào trước khi tới cửa hàng ngắm những món đồ lấp lánh trong tủ kính và bắt đầu hàng trình lựa chọn với sự tư vấn của nhân viên bán hàng. Con số này thậm chí còn cao hơn khi chị em đi mua phụ kiên thời trang. Khoảng 60% phụ nữ được khảo sát cho biết họ không hề tìm hiểu trên internet trước khi tới cửa hàng chọn cho mình môt chiếc túi xách đắt tiền.

Cá biệt chỉ có 28% nam giới có sự định vị chính xác chiếc đồng hồ mình định mua trước khi tới cửa hàng và 26% khách hàng nữ có sự nghiên cứu trước về loại mỹ phẩm họ đang quan tâm. Điều này được lý giải bởi khách hàng mua đồng hồ cao cấp thường là những "tín đồ" của tôn giáo đồng hồ và họ luôn biết mình đang muốn một chiếc đồng hồ như thế nào trước khi cà thẻ. Trong khi đó, mỹ phẩm là loại sản phẩm ảnh hưởng tới sức khỏe khiến khách hàng nữ thường thận trọng khi lựa chọn.

Mặc dù vậy, cũng chính nhóm khách hàng nam giới mua đồng hồ hoặc trang sức và nữ giới khi tới các cửa hàng mỹ phẩm cao cấp cho biết vai trò của người bán hàng đối với quyết định của họ rất lớn! chính vì thế, thao bà Redraza, các hãng kinh doanh phân khúc này vẫn luôn phải đề cao vấn đề đào tạo nhân viên, bởi "mối quan hệ con người với con người giữa khách hàng và bán hàng vẫn có tính quyết định rất cao".

Khởi nghiệp nhất thiết phải có đam mê, nhưng một mình nó chưa đủ giúp một start-up thu hút được chú ý của nhà đầu tư.

Rất nhiều những doanh nhân khởi nghiệp nghĩ rằng đam mê chính là chiếc vé lên chuyến tàu thành công. Ví dụ trên nhiều trang crowfunding (góp vốn khởi nghiệp), họ tranh nhau, cố chứng tỏ bản thân giàu nhiệt huyết với dự án của riêng mình. Điều đó cũng có chút ít tác dụng khi kêu gọi những nhà đầu tư không chuyên rót vốn vào những ý tưởng rất tuyệt vời của họ.

Nhưng câu chuyện sẽ đi vào một ngã rẽ mới trên con đường dài đến thành công. Một nghiên cứu thực hiện trên hàng trăm nhà sáng lập doanh nghiệp chỉ ra rằng đam mê không có ý nghĩa gì với kết quả sau vài năm triển khai. Điều quan trọng đó là sự chuẩn bị: Liệu người khởi nghiệp đã vạch ra đầy đủ những ý tưởng, thực sự thấu hiểu được thị trường, chuẩn bị những kế hoạch để đối phó với những khó khăn, và vận dụng tốt được những tình huống ngẫu nhiên hay chưa?


Mark Zuckerberg "Nếu bạn chỉ làm những gì mình thích, bạn sẽ đánh mất cái nhìn tổng thể về những gì sẽ diễn ra tiếp theo". Ảnh: Forbes


Utpal M.Dholakia cùng đồng nghiệp thuộc đại học Rice đã thực hiện hàng loạt nghiên cứu về những dự án cấp đại học toàn nước Mỹ được chọn tham gia cuộc thi khởi nghiệp tổ chức bởi Rice. Những dự án này thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau từ công nghệ sinh học cho tới bán lẻ và sản phẩm tiêu dùng.

Ban đầu, hầu hết thí sinh dự thi khẳng định đam mê chính là yếu tố then chốt khi phỏng đoán về sự thành công trong tương lai. 3 năm sau, chỉ một số ít những thí sinh thành công với dự án được điều tra thể hiện lại quan điểm trên.

Kết quả này chỉ ra rằng đam mê của người khởi nghiệp không hoặc đóng vai trò rất ít trong số phận của những dự án họ triển khai. Ngược lại, chính sử chuẩn bị kỹ càng mới là đôi cánh giúp ước mơ của họ bay cao.

Đội ngũ nghiên cứu cũng tiến hành phân tích 522 dự án được đăng trên Indiegogo - trang thu hút vốn đầu tư khởi nghiệp lớn nhất toàn cầu. Những đoạn phim, bài phát biểu được ghi lại và phân tích. Những thuật ngữ đồng nghĩa với "đam mê" như "rất nhiệt huyết", "cống hiến"… đều được đánh dấu.

Quá trình tương tự cũng lặp thu thập những bằng chứng của sự chuẩn bị, như những báo cáo về nguồn lực cần khai thác để triển khai dự án. Kết quả trả về chỉ ra rằng những người khởi nghiệp thể hiện được đam mê nhiều hơn thành công gấp 3 lần trong việc đạt được mục tiêu thu hút vốn, trong khi đó những bằng chứng về quá trình chuẩn bị tỏ ra không có mấy tác dụng.

Nghiên cứu tiếp tục tiến hành sâu hơn trên những nhà đầu tư lão luyện trả về một kết quả rất khác. Nhóm đầu tư chuyên nghiệp thường có cái nhìn rất khác với đám đông, họ thường tính hệ số thấp đam mê mà nhà khởi nghiệp thể hiện, và tính hệ số cao hơn vào thực tế quá trình chuẩn bị. Nhưng với giả thiết rằng, những doanh nhân "chân ướt chân ráo" này muốn vượt mặt những nhà đầu tư lão làng và tập trung hơn vào thuyết phục đám đông, và rằng đám đông cũng thích họ, thì chuyện gì sẽ xảy ra?

Bản báo cáo không gợi ý rằng những người khởi nghiệp coi nhẹ những đam mê của mình. Sau tất cả thì một dự án sẽ không tạo được tiếng vang trong giới đầu tư trừ khi nó tỏ ra hấp dẫn. Tuy vậy, sự đam mê thường có tác dụng xấu nếu nó được nhà đầu tư hoặc người khởi nghiệp tung hứng quá nhiều.

Thay vào đó, doanh nhân khởi nghiệp cần phải đạt được sự cân bằng. Những phát biểu thể hiện sự đam mê phải luôn đi kèm với những bằng chứng thể hiện sự chuẩn bị kỹ càng. Ví dụ như làm sao họ có thể tìm kiếm, tuyển dụng những người phù hợp. Để ý vào những điều nhỏ nhặt luôn là chìa khóa cốt lõi của sự thành công.

Cả nhà đầu tư lẫn người khởi nghiệp cần hiểu rằng, nếu không có sự chuẩn bị, một mình đam mê không có nhiều ý nghĩa.

Trong thời buổi cạnh tranh như hiện nay, doanh nghiệp (DN) cần quan tâm xây dựng thương hiệu (XDTH), phải tạo được sự khác biệt và thể hiện trách nhiệm với xã hội.
GS. Don Sexton tại Đại học Columbia từng cho rằng, "thương hiệu không chỉ là tên gọi, là logo mà nhiều hơn thế. Định vị thương hiệu là tâm điểm của chiến lược thương hiệu". Nếu định vị không rõ ràng, không chính xác, chiến lược thương hiệu sẽ thất bại. Muốn định vị thương hiệu hiệu quả, DN phải tìm hiểu khách hàng cũng như việc mình có thể làm tốt.

Tham gia "sân chơi chung toàn cầu" khi gia nhập WTO cũng đồng nghĩa với áp lực cạnh tranh đối với DN càng lớn. Vì thế, nhất thiết DN phải quan tâm đến XDTH.

Có nhiều cách để xây dựng một thương hiệu tốt nhưng quan trọng nhất vẫn là làm thế nào để việc XDTH gắn với giá trị cốt lõi, chiến lược kinh doanh của DN, tạo sự khác biệt và thể hiện trách nhiệm với xã hội.


Xây dựng giá trị cốt lõi của DN đòi hỏi sự tập trung trí tuệ, sức lực của cả công ty trong thời gian dài. Thành công trong việc xây dựng giá trị cốt lõi giúp DN phát triển bền vững trong mọi tình huống, ngay cả trong môi trường kinh doanh nhiều bất ổn ngày nay.

Chiến lược kinh doanh của DN như tấm bản đồ chỉ đường đi, ngắn hạn và dài hạn. Hoạch định chiến lược kinh doanh được xem là yếu tố quyết định tạo nên sự thành công của mỗi DN.

Thực tế cho thấy, hoạch định chiến lược kinh doanh không kỹ lưỡng, không dựa trên nghiên cứu thị trường, không nhận biết rõ đối thủ cạnh tranh... sẽ giống như người đi trong đêm tối, không thấy rõ đường đi, không có lộ trình nên sẽ dễ mất phương hướng.

XDTH phải có định hướng và tạo được sự khác biệt để tạo lợi thế cạnh tranh. Theo Hãng Tư vấn chiến lược BCG (Mỹ), muốn duy trì lợi thế cạnh tranh lâu dài cần phải tạo sự khác biệt.

Thị trường năng động hiện nay khiến DN khó nắm bắt và duy trì lợi thế cạnh tranh, nhưng không có lợi thế cạnh tranh thì DN khó tồn tại. Lợi thế cạnh tranh là tài sản DN cần phải đầu tư tạo dựng bằng mọi giá và XDTH cần phải được định hướng cũng như tạo nên sự khác biệt để vượt lên các đối thủ.

Một điều quan trọng không kém là XDTH phải gắn với trách nhiệm xã hội (CSR). Trong thời điểm khó khăn, DN phải tái cấu trúc để tồn tại và phát triển bền vững, đi kèm với đó là thực hiện CSR xuyên suốt trong toàn bộ chiến lược kinh doanh.

Trước đây, DN hoạt động trong phạm vi hẹp, mang tính chất thủ công với quy mô nhỏ nhưng hiện nay, sản xuất của DN mang tính quốc gia, cạnh tranh quốc tế, vì thế, phát triển bền vững là phải hài hòa về kinh tế - xã hội - môi trường. Thực hiện CSR thông qua quá trình tổ chức hoạt động sản xuất, kinh doanh chính là sự cam kết của DN đóng góp vào mục tiêu phát triển bền vững của quốc gia.

Khi DN thực hiện CSR có nghĩa là điều kiện làm việc của người lao động tốt hơn, năng suất tăng cao sẽ giúp nâng cao chất lượng cũng như giảm giá thành sản phẩm. Và nhờ đó, uy tín thương hiệu DN ngày càng được nâng lên, thúc đẩy doanh thu và lợi nhuận tăng theo.

Kết quả cuộc khảo sát của Viện Khoa học Lao động và Xã hội tại 24 DN ngành dệt may và da giày cho thấy, nhờ thực hiện các chương trình CSR, doanh thu của những DN này đã tăng 25%, năng suất lao động cũng tăng từ 34,2 triệu đồng/lao động/năm lên 35,8 triệu đồng/lao động/năm.

Tỷ lệ hàng xuất khẩu tăng từ 94% lên 97%. Ngoài hiệu quả kinh tế, các DN còn có lợi từ việc xây dựng hình ảnh với khách hàng, sự gắn bó và hài lòng của người lao động, thu hút lao động có chuyên môn cao.

Việc XDTH sẽ giúp thu hút khách hàng đến với DN và sản phẩm, dịch vụ của DN. Thứ hai, sẽ duy trì lòng trung thành của khách hàng đối với sản phẩm của DN, đồng thời giúp DN mở rộng thị trường, tạo lợi thế cạnh tranh so với các DN khác...


Việc Việt Nam gia nhập WTO, tích cực đàm phán ký kết các hiệp định thương mại AFTA... sẽ mang lại nhiều cơ hội cho DN mở rộng thị trường, nhưng kèm với đó là không ít thách thức. Vì thế, không thể không quan tâm đến việc XDTH.

Bởi thương hiệu là tài sản giá trị rất quan trọng và quý giá, tạo sự tín nhiệm bền vững của khách hàng đối với DN và sản phẩm của DN, giúp DN phát triển bền vững.

Ngày nay, người tiêu dùng có nhiều quyền lực và thông minh nên chỉ chọn lựa những DN có thương hiệu trung thực, có trách nhiệm với xã hội. Và họ có xu hướng lựa chọn "cái tốt hơn" thay cho "cái nhiều hơn".

Vì thế, yếu tố giúp DN trụ vững và lâu bền trong tâm trí khách hàng cũng như môi trường kinh doanh chính là lòng tin của khách hàng, chữ tín, trách nhiệm xã hội của DN thông qua sản phẩm, qua ứng xử với người lao động, với khách hàng, cộng đồng và môi trường.

Chiếc điện thoại Fairphone 2 hiện đã được cho đặt hàng trước với giá 575 USD (khoảng 12,5 triệu đồng).

Fairphone 2 là một mẫu smartphone Android được thiết kế cho những người muốn có sự tiện lợi của công nghệ hiện đại nhưng không thích chi hàng trăm USD cho một thiết bị khi nó được xây dựng bởi những người lao động được trả lương tệ hại, góp phần tăng rác thải điện tử và những vấn đề khác.

Chiếc điện thoại này được làm từ các vật liệu của một chương trình tái chế rác điện tử ở Ghana và kết hợp với quỹ kiểm soát phúc lợi nhân viên ở Trung Quốc.

Chiếc điện thoại này dự kiến sẽ có mặt vào tháng Mười tới trên thị trường. Fairphone 2 đã có thông số kỹ thuật tốt hơn so với phiên bản ban đầu nhưng các nhà sản xuất cho biết họ không có ý định cạnh tranh với các thiết bị hàng đầu của LG, Samsung, HTC… vì chiếc điện thoại này có thể dễ dàng thay thế linh kiện nên bạn không cần quan tâm đến vấn đề phần cứng sẽ trở nên lỗi thời.

Cụ thể, Fairphone 2 sẽ được trang bị một màn hình hiển thị 5 inch với độ phân giải 1080p, sử dụng vi xử lí Qualcomm Snapdragon 801, RAM 2 GB, bộ nhớ trong 32 GB, hỗ trợ WiFi 802.11ac, Bluetooth 4.0, GPS, LTE, dual sim. Máy sở hữu một camera chính có độ phân giải 8 MP, camera phụ 2 MP, pin 2420 mAh và chạy Android 5.1 Lollipop.

Chiếc điện thoại này được thiết kế theo kiểu bán module (mô đun), có nghĩa là bạn có thể mua và thay thế một số bộ phận như nắp lưng để làm mới sản phẩm của mình (người dùng cũng có thể thay thế pin của thiết bị). Người dùng cũng có thể dễ dáng loại bỏ các bộ phận như camera, loa, microphone, cổng USB, và màn hình hiển thị.

Điều này cho phép bạn thay thế các linh kiện bị hỏng mà không cần vứt đi toàn bộ thiết bị hoặc nó cũng mở ra khả năng nâng cấp điện thoại mình mạnh mẽ hơn với một chi phí thấp nhất. Tuy nhiên, chưa rõ việc cung cấp các linh kiện thay thế này sẽ diễn ra như thế nào.

Lưu ý rằng, bạn sẽ không có khả năng thay thế các linh kiện cốt lõi của thiết bị như bộ xử lý, bộ nhớ và ăng-ten.

Ở Nhật có một cuốn sách khá nổi tiếng về Marketing là 「実践マーケティング戦略」-chiến lược Marketing thực tế- của tác giả 佐藤義典- Sato.

Cuốn sách không phân tích chiến lược marketing theo góc nhìn 4P của Philip Kotler vì theo như tác giả cho rằng, tất cả các sản phẩm đều áp dụng 4P thì hơi cứng nhắc. Ngoài ra trong các thành phần 4P, giá (Price) có thể nằm trong cả khâu phân phối (Place), quảng bá (Promotion) có thể được gài ngay trong sản phẩm (Product) nên việc phân ra 4 yếu tố P trên chưa hẳn đã giúp nhà quản lý đánh giá đủ về chiến lược. Cuốn sách đề cập đến cách xây dựng chiến lược marketing dựa trên các yếu tố: công cụ Basics, Mindflow của khách hàng, Độ sâu và rộng của nhu cầu, Product flow.

Phần đầu bài viết sẽ tập trung vào công cụ Basics, phần sau sẽ nói về 3 yếu tố còn lại.

Mọi người thường nhắc tới chiến lược Marketing. Vậy nên hiểu “chiến lược” là gì? Chiến lược là việc tối ưu hóa hành động để đạt được mục tiêu của mình. Chiến lược marketing là tối ưu hóa việc sử dụng các nguồn lực của công ty (nhân lực, tài chính, quan hệ,…) để có được kết quả kinh doanh tốt.

Chiến lược có nghĩa là phải dồn nguồn lực vào một đường lối phát triển nào đó, nói một cách khác là biết nói không với các phương hướng khác. Một chiến lược chỉ được quyết định dựa trên cảm quan là chiến lược rủi ro. Để cho ra một chiến lược, cần phải xem xét thị trường từ nhiều góc độ khác nhau, đưa ra phân tích khách quan. Vậy để xây dựng chiến lược thì cần làm gì?

Basics
Basics là tập hợp các yếu tố cơ bản cần phải quyết định khi hoạch định chiến lược. BASiCS là viết tắt của từ Battlefield (chiến trường), Asset (tài sản), Strength (thế mạnh), Customer (khách hàng), Selling Message (thông điệp bán hàng).
Chọn Battlefield, chiến trường
Cần chọn chiến trường mà khi đánh dễ thắng. Chẳng hạn như sử dụng chiến trường trống, chưa có đối thủ thì theo lẽ thường là “Bất chiến tự nhiên thành”. Chiến trường có nhiều loại: địa điểm cửa hàng, chỗ bày bán sản phẩm trên giá kệ của chuỗi phân phối, phân khúc khách hàng (trai, gái, già, trẻ), thể loại sản phẩm, tâm trí của khách.

Cách lựa chọn chiến trường:
  • Chọn nơi có nhiều cơ hội và ít rủi ro
  • Chọn nơi có thể phát huy được nguồn lực và thế mạnh của mình
  • Chọn nơi mà các đối thủ khó có khả năng nhảy vào
Chọn Asset: quyết định xem tài sản của công ty là gì?

Nguồn tài sản của công ty là nguồn lực của công ty mà các công ty khác không có hoặc có ít hơn, trở thành lợi thế cạnh tranh của công ty. Nó gần giống với giá trị cốt lõi. Chẳng hạn như công ty sở hữu một địa điểm vàng, có một quy trình sản xuất hoàn hảo, có mối quan hệ tốt với khách hàng, có một thương hiệu mạnh, có chuỗi cung ứng tốt, có đội ngũ nhân viên giàu kinh nghiệm, có kiến thức công nghệ mà công ty khác không có thì đó là tài sản.
Chọn Strength: quyết định thế mạnh của công ty

Thế mạnh là điểm hấp dẫn khách hàng đến với sản phẩm, dịch vụ của công ty. Cũng có thể gọi thế mạnh là điểm khác biệt. Một công ty có điểm khác biệt hay không, không phụ thuộc vào chính công ty đó mà do khách hàng phán xét. Thế mạnh của công ty tốt đến đâu phụ thuộc vào các công ty khác, nó chỉ mang tính tương đối. Một công ty gọi là giỏi nếu đối thủ của họ không làm được điều tương tự.

Thế mạnh khác với tài sản. Thế mạnh dựa trên lợi ích mà khách hàng nhận được. Tài sản là cái mà công ty có để tạo ra lợi ích đó. Chẳng hạn như thế mạnh là giá thành thấp. Để có giá thành thấp thì công ty cần có tài sản thích hợp, chẳng hạn nhà máy với hiệu quả công suất cao…Nếu một công ty có tài sản mà đối thủ không có, thì kéo theo đó, họ cũng có thế mạnh mà đối thủ không vượt được.

Thế mạnh tất nhiên là thứ mà khách hàng mong muốn nhất. Có những điểm khác biệt nhưng không trở thành thế mạnh thực sự vì nó không được khách hàng đánh giá cao lắm. Chẳng hạn như tính năng chống nước của điện thoại. Thực tế thì với nhiều khách hàng, tính năng này gần như không để làm gì.

Thế mạnh có thể khác nhau dựa trên đối thủ và thị trường. Tùy vào đối thủ mà mỗi công ty có thế mạnh riêng, điểm khác biệt riêng. Có những thế mạnh ở thị trường này nhưng khi đem sang thị trường khác thì lại không còn là thế mạnh nữa. Chẳng hạn nhiều tính năng mạnh mẽ là thế mạnh của một ứng dung điện thoại ở những nước phát triển, với hạ tầng viễn thông tiên tiến, lại trở thành điểm yếu ở vào thị trường nghèo hơn, nơi có tốc độ băng thông yếu.
Chọn Customer: quyết định khách hàng đối tượng
Cần nhắm tới một phân khúc khách hàng cụ thể, cũng có nghĩa là phải bỏ qua một số loại khách hàng khác. Trong thời buổi hàng hóa dịch vụ tràn lan như hiện nay, không có ai có thể ôm lấy toàn bộ khách hàng được. Chỉ có một trong hai khả năng, hoặc là bỏ qua toàn bộ thị trường hoặc bỏ qua một vài phân khúc trong thị trường đó.

Có nhiều cách để phân loại thị trường: phân loại theo phong cách sống, phong cách tiêu dùng (người thích cái mới, người học đòi theo nhóm tiên phong, người mua sản phẩm trước khi nó thịnh hành, người thích mua sản phẩm khi nó đã thịnh hành, người mua sản phẩm do tất cả mọi người làm thế)

Những điểm quan trọng khi phân loại khách hàng:
  • Cần phải phân chia một cách khách quan: Chẳng hạn như trong phân loại có kiểu người có phong cách sống thời thượng, dựa vào cách anh ta ăn mặc. Tuy nhiên cách phân loại này không khách quan. Cần phải có những tiêu chuẩn cụ thể cho phân loại: Anh ta có xe không, một tháng anh đi xem phim trên 3 lần không, một tuần anh ta có ăn ngoài trên 3 lần không, một tháng có bỏ ra hơn 5 triệu mua quần áo mới không? Đó là phân loại có tính định lượng, cụ thể, thống nhất.
  • Cần phải có tính thị trường: Có nghĩa là phải quan tâm đến quy mô lợi ích mà khách hàng có thể mang lại. Họ mua nhiều lần hay ít lần, mỗi lần mua bao nhiêu,…
  • Không được phân chia quá chi tiết: Càng phân chia phức tạp, càng khó quản lý, và cũng càng khó phục vụ.
  • Có thể phân chia lại nhiều lần: Phân loại khách hàng không phải một lần là xong. Thị trường luôn thay đổi, theo định kỳ, bạn phải phân loại lại khách hàng của mình. Vì thế cần có những tiêu chuẩn rõ ràng, cơ bản, xuyên suốt cho việc phân loại.
  • Giữa các phân khúc cần phải có khác biệt tương đối lớn. Nếu không, việc phân loại không có mấy ý nghĩa.
  • Chỉ quan tâm đến thị trường mà bạn có thể với tới. Chẳng hạn như thị trường vùng sâu vùng xa, có phân khúc mà bạn không thể mở chi nhánh ở đó thì cũng không để làm gì.

Thường thì một công ty, nhãn hàng cần phải trở thành số 1 trong ít nhất một phân khúc mà họ chọn. Vì thế họ cần thu nhỏ phân khúc cho đến khi họ có thể trở thành vua trong phân khúc đó. Có ba cách thu hẹp để trở thành số 1: thu hẹp dựa trên khách hàng ( trở thành nhà bán quần áo lớn nhất cho trẻ em dưới 12 tuổi), thu hẹp dựa trên sẩn phẩm (trở thành số 1 trong việc cung cấp hàng đông lạnh ngon), và thu hẹp dựa theo địa lý (quán ăn ngon nhất vùng Tây Bắc)

Lý do vì sao trở thành số 1? Bởi vì trên cùng võ đài, người số 1 bao giờ cũng có lợi thế áp đảo hơn so với phần còn lại. Là số 1, mức độ nhận diện rất rộng, rộng hơn nhiều so với số 2. Ngọn núi cao nhất Nhật Bản là núi Phú Sỹ, đển trẻ con cũng biết. Còn ngọn núi cao số 2, không phải ai cũng muốn nhớ. Người ở vị trí số 1 thường có vị trí vững chắc trong tâm trí khách hàng.

Trong trường hợp mà bạn không thể trở thành sô 1 thì sao? Khi đó thì chọn phân khúc nào cũng được. Khi đó bạn thay đổi thông điệp gửi tới khách hàng một chút. Nếu bạn là người số hai, bạn nói bạn ở top 2, là người số 2 thì nói là ở top 3.
Chọn Selling message: Lựa chọn thông điệp bán hàng hấp dẫn
Chỉ khi bạn gửi thông điệp đến khách hàng, chiến lược marketing của bạn mới phát huy tác dụng. Việc ăn ý nhau giữa chiến lược và thông điệp truyền tải mang tính sống còn.

Điểm khác biệt của sản phẩm nằm trong tâm trí khách hàng. Do đó, ở đây, thông điệp có sứ mệnh tác động đến tâm trí họ, giúp họ cảm nhận được điểm khác biệt đó.

Cần phải chọn Selling Message có ảnh hưởng đến khách hàng đối tượng bằng cách chú trọng vào lợi ích của khách hàng. Chẳng hạn như thông điệp làm bật nên giá thành rẻ của sản phẩm thì có khả năng thu hút tầng lớp bình dân đang cần tiết kiệm tiền. Những thông điệp khác nhau thu hút đối tượng khách hàng khác nhau.

Cần phải tạo ra thông điệp ấn tượng. Thông điệp ấn tượng trước hết phải là một thông điệp dễ hiểu. Không ai có ấn tượng với thứ mà họ không hiểu gì hết.

Khi thiết kế thông điệp, nhà thiết kế cần chú ý rằng, khách hàng chỉ muốn nghe thứ họ thích nghe, chỉ phân tích xem có gì có lợi cho họ không, và chỉ nhớ những gì họ muốn nhớ. Thông thường khách hàng chỉ quan tâm những thứ mang lại lợi ích cho họ. Lợi ích thì có hai loại: lợi ích tinh thần và lợi ích tính năng. Có 5 lợi ích tính năng cơ bản: nhanh, rẻ, tiện, hữu dụng, chất lượng tốt. Có 4 lợi ích tinh thần là: thú vị, vượt trội, vì cộng đồng, nổi tiếng. Công ty nên tập trung vào các lợi ích trên trong thông điệp.

Tương tự cam kết hôn nhân, mối quan hệ kinh doanh chỉ thành công nếu bạn ở đó, chung lưng đấu cật với mọi người cả trong thời điểm tốt và xấu.

Dưới đây là chia sẻ của Muhtar Kent, CEO Coca-Cola khi trả lời câu hỏi: Làm thế nào để tạo dựng mối quan hệ kinh doanh đầy ý nghĩa?

Mỗi khi tôi đến thăm một trường đại học hoặc phát biểu trước những người chuyên nghiệp trẻ tuổi, tôi thường được hỏi “Ông nghĩ yếu tố nào đóng vai trò quan trọng nhất mang lại thành công trong kinh doanh?” Tôi nói với họ, không lưỡng lự, đó là “Tôi không bao giờ đi ăn một mình”.

Mọi thời điểm trong ngày đều là cơ hội để khởi đầu hoặc cũng cố mối quan hệ và những mối quan hệ này, nếu đã có, có thể đưa đến những cơ hội không thể tin được cho những người có liên quan. Với tôi, những mối quan hệ là yếu tố quan trọng bậc nhất tôi mang theo khi đảm nhận chức vụ Chủ tịch và CEO Coca-Cola. Một cách thành thật, chúng là những gì tôi có ở đây. Và bài học lớn nhất tôi học được trong những năm qua về mối quan hệ là chúng chỉ phát huy hiệu quả khi bạn ở đó vì mọi người mọi lúc, dù đó là thời điểm khó khăn hay suôn sẻ.

Để tôi cho các bạn một ví dụ về việc này. Năm 1989, ở tuổi 36, tôi nhận trách nhiệm dẫn dắt Coca-cola thâm nhập vào thị trường liên bang Xô-viết và Đông Âu sau khi Bức tường Berlin sụp đổ. Những khái niệm như nhân quyền, tự do ngôn luận, dân chủ, doanh nghiệp tự do và sở hữu đất đai đều khá mới mẻ với 350 triệu người đang sống ở một khu vực rộng lớn này.

Gần như chưa hề có bất kỳ cơ sở hạ tầng nào cho Coca-cola ở thị trường này. Không nhà máy đóng chai. Không hệ thống phân phối. Thách thức của chúng tôi là thành lập hơn 20 nhà máy đóng chai và hệ thống phân phối hiện đại trong vài tháng trải khắp 23 quốc gia.

Trong thời gian này, tôi đến Albania - khi đó là một nền kinh tế khá tách biệt với các nước khác trên thế giới. Nền kinh tế Albania suy thoái và người dân thiếu thốn rất nhiều thứ. Tuy nhiên, chúng tôi nhìn thấy tiềm năng và quyết định mở một cơ sở đóng chai tại đây. Chúng tôi cần tìm đúng người có thể giúp đỡ. Một vài người giới thiệu cho tôi một nha sĩ và nói “ông nên gặp người đàn ông này”.

Tôi tìm đến vị nha sĩ này trong văn phòng của ông. Văn phòng của ông không có lò sưởi và ông dùng những hộp gỗ đựng hoa quả để làm ghế ngồi cho bệnh nhân. Tôi nhanh chóng tạo dựng quan hệ với ông và gửi cho ông một số tờ báo và tạp chí phương Tây - vốn không sẵn có tại Albania tại thời điểm đó.

Một năm sau, trong cuộc bầu cử tư do đầu tiên, vị nha sĩ này - Salih Berisha - trở thành tổng thống đắc cử đầu tiên của Albania. Coca-cola trở thành doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đầu tiên và năm 1993, chúng tôi mở nhà máy Coca-cola hiện đại đầu tiên. Tổng thống Berisha tham dự lễ cắt băng khánh thành và ngày nay Coca-cola tạo hơn 2.000 việc làm tại Albania.

Đây cũng là thời gian một vị giáo sư đại học cao tuổi - người mà tôi vẫn thường xuyên liên lạc - trở thành Phó thủ tướng Ba Lan. Một ngày nọ, hoàn toàn bất ngờ, ông gọi điện cho tôi, ngay trước khi Bức tường Berlin sụp đổ và nói “Muhar, ông và Coke tốt nhất nên sẵn sàng vì mọi chuyện sẽ thay đổi rất nhanh ở Ba Lan”.

Vị giáo sư này đã đúng và lời khuyên đầy thông thái của ông là lý do chính giúp Coca-cola có thể mở nhà máy đóng chai tại Ba Lan, một trong số 23 nhà máy chúng tôi mở ở khối Đông Âu chỉ trong 2 năm.

Nói đơn giản, những mối quan hệ vô cùng quan trọng và trong một thế giới kỹ thuật số phát triển như vũ bão hiện nay, chúng ta có đủ điều kiện để tạo dựng và phát triển mọi mối quan hệ thương mại cần thiết.

“Một nhà bếp đầy ắp đồ ăn sẽ làm nên một ý chí kém cỏi.” Đó là câu châm ngôn của Benjamin Franklin và cũng là một phần nguyên nhân thất bại của đế chế Tây Ban Nha.
Khám phá từ cuộc nghiên cứu về sự thất bại của đế chế hùng mạnh Tây Ban Nha, sử gia David Landes cho rằng họ thiếu sự đề cao lao động chăm chỉ mà người Mỹ, Anh, Pháp đã phát triển.

Của cải không tốt bằng lao động, sự giàu có không tốt bằng việc tạo ra sự giàu có. Vì thế, Tây Ban Nha trở nên nghèo bởi vì nó có quá nhiều tiền trong khi các quốc gia khác phải tập thói quen làm việc nên tạo được của cải một cách bền vững hơn.

- David Landes là một sử gia xuất sắc người Mỹ và có hàm giáo sư tại ngôi trường đại học hàng đầu thế giới Harvard về lịch sử, kinh tế học. Trong cuộc nghiên cứu sự thành công và thất bại của các quốc gia, Landes đã bật mí nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ và thụt lùi của đế chế một thời hùng mạnh Tây Ban Nha.
Trong một nhịp sống hối hả và con người có xu hướng chạy theo vật chất thì những khám phá của Landes sẽ không bao giờ lỗi thời. Ông đề cao sự lao động chăm chỉ và khuyến khích con người dấn thân vào dòng chảy công việc cho dù kiếm được bao nhiêu từ nó.
Khám phá của Landes
Trở lại thời gian trước đây, trong khi Trung Quốc tự cô lập với thế giới bên ngoài thì Tây Ban Nha đã giao thương buôn bán dọc bờ biển châu Phi và Ấn Độ cũng như những vùng lân cận vào thế kỷ 15.
Trong xu hướng thèm khát vàng bạc, người Tây Ban Nha đổ xô đi tìm kiếm nó ở vùng Incas. Khi đó, vàng được xem như là một món hàng hóa giá trị dễ lưu thông giữa các quốc gia châu Âu. Săn vàng là thế mạnh của người Tây Ban Nha. Họ tìm kiếm vàng ở những thị trường mới và vì thế mang về cho họ rất nhiều của cải. Do vậy, Mandrid được xem là một thành phố giàu nhất Châu Âu.
Đế chế Tây Ban Nha đã hoạt động rất hiệu quả nhưng quyền cai trị lại thuộc về những người chuyên quyền. Còn văn hóa, theo Landes thì tước đi của người dân sự sáng kiến, tự chủ và nhân cách.
Vua là một người phân chia tối thượng, tất cả đất đai đều là của vua. Đế chế quy tập những con người khác nhau và lập nên một tiếng nói chung. Landes gọi đế chế một thời của Tây Ban Nha là những người nhiễm bệnh ăn cướp và bóc lột. Vì người nắm quyền thích lấy của người khác hơn là tự làm và còn thường nhân danh là Thượng Đế.
Kết hợp giữa sự tham lam và niềm tin mù quáng đã mở đường cho sự tàn bạo cũng như kẻ mạnh ức hiếp kẻ yếu. Sự ngạo mạn và ảo tưởng không thể bị đánh bại là đặc điểm thường thấy của các đế chế.
Tại sao đế chế này lại suy tàn? Đó là bởi vì tiền không được đầu tư mà chỉ tiêu vào cuộc sống xa xỉ và chiến tranh. Cũng giống như cất nhà mà không xây móng, mô hình này thiếu cơ sở nền tảng để thành công trường tồn. Đất nước này không tạo ra thêm của cải khác từ bất kỳ ngành công nghiệp nào và không nghĩ đến việc dùng tiền bạc sao cho có ích.
Landes nói: “Của cải không tốt bằng lao động, sự giàu có không tốt bằng việc tạo ra sự giàu có.” Tây Ban Nha thiếu sự đề cao lao động chăm chỉ mà người Mỹ, Anh, Pháp đã phát triển và quá tự tin vào vị thế cao về tôn giáo cũng như xã hội của mình. Họ phải dựa vào những người bên ngoài để thực hiện việc buôn bán và làm việc cho mình. Đế chế này tiêm nhiễm thói quen thích làm chủ trong khi công việc chân tay thì bị coi thường.
Theo quan điểm của Landes, nước Tây Ban Nha trở nên nghèo bởi vì nó có quá nhiều tiền trong khi các quốc gia khác phải tập thói quen làm việc nên tạo được của cải một cách bền vững hơn. Trong khi người Tây Ban Nha còn bận suy nghĩ để quyết định cách tiêu các thỏi vàng thì ở các nước khác của châu Âu, họ đang học cách dệt vải, luyện sắt, đốn gỗ, khai thác tài nguyên biển và rừng.
Đây hẳn là những công việc đem về ít tiền bạc hơn so với đào vàng. Nhưng giá trị của sự lao động giúp họ nhận thức được ý nghĩa của đồng tiền và khiến họ không thể phung phí những thành quả lao động.
Một sai lầm khác của Tây Ban Nha cổ xưa
Người Do Thái là một cộng đồng xã hội nhỏ nhưng lại có sức ảnh hưởng lớn đến nền văn minh của thế giới. Từ cuộc sống, khoa học, phát minh cho đến tư tưởng đều có sự tác động của người Do Thái.
Thế nên đế chế Tây Ban Nha đã mắc phải một sai lầm lớn khi mở ra các cuộc tàn sát người Do Thái và vì thế đã tạo ra các cuộc tháo chạy của những con người tài giỏi: doanh nhân, nhà phát minh, bác học.
Theo Landes, họ chỉ là những con người nhỏ bé nhưng lại là những viên gạch vững chắc và tốt nhất để xây dựng một xã hội văn minh hiện đại. Đánh mất những con người tốt nhất, Tây Ban Nha đã tự bắn vào chân mình.

Quảng cáo trên thiết bị di động đi kèm với rất nhiều thách thức. Trong bài viết dưới đây, tác giả Rob Rasko (Giám đốc điều hành công ty The 614 Group, chuyên cung cấp các giải pháp tiếp thị kỹ thuật số) sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn về hiệu quả của hoạt động marketing trên thiết bị di động.
Thống kê cho thấy, số người sử dụng các thiết bị di động mỗi ngày thật đáng kinh ngạc. Theo một số nghiên cứu, 60% lượng truy cập trực tuyến hiện nay đến từ các thiết bị di động như máy tính bảng, điện thoại thông minh.... Rõ ràng, con số này thật sự hấp dẫn các nhà quảng cáo khi phát triển chiến dịch marketing. Tuy nhiên, quảng cáo trên thiết bị di động (quảng cáo di động) cũng đi kèm không ít khó khăn.

Những thách thức của quảng cáo di động
Kích thước nhỏ bé của màn hình là rào cản đầu tiên. Trong môi trường di động, không gian dành cho quảng cáo chỉ gói gọn trong màn hình bé tẹo cỡ lá bài. Điều này buộc các nhà quảng cáo phải điều chỉnh chiến lược của mình để dồn sức tận dụng hiệu quả diện tích quảng cáo bé nhỏ.

Ngoài hạn chế về mặt không gian, các nhà quảng cáo cũng cần phải điều chỉnh cách hiển thị từng mẩu quảng cáo cho phù hợp với các thiết bị di động khác nhau. Có vẻ không đơn giản chút nào! Chưa kể, để tạo chiến dịch quảng cáo di động thành công, họ còn phải gửi đến người xem những thông điệp thật sự thu hút.


Tác giả Rob Rasko minh họa điều này bằng cách kể lại câu chuyện khi xem một đoạn video trên Youtube cùng với con trai 8 tuổi. Khi video quảng cáo được tải xong, cậu bé nói: "Bố ơi hãy bỏ qua đoạn quảng cáo này đi". Và Rob đáp: "Nếu mình làm vậy, bố sẽ không có khả năng trả nợ!". Nhưng cậu bé trả lời: "Vâng, thỉnh thoảng con cũng xem các quảng cáo, nhưng chỉ khi nào nó thú vị thì con mới xem!". Rõ ràng, phản hồi của cậu bé đã cho thấy một trong những rào cản lớn nhất của quảng cáo di động: đó là quảng cáo sẽ không hiệu quả nếu không thu hút được sự chú ý của người xem.

Như con trai Rob đã chỉ ra, quảng cáo di động phải hấp dẫn, hoặc sẽ không mang lại hiệu quả. Trong không gian quảng cáo nhỏ hẹp, điều này càng buộc các mẩu quảng cáo phải sáng tạo hơn nữa để lôi kéo sự quan tâm từ phía người xem. Các nhà quảng cáo nay "có ít hơn nhưng phải làm được nhiều hơn". Vì vậy, Rob đặt ra câu hỏi: với những thử thách đã nêu ra, làm thế nào để các thiết bị di động có thể làm công việc quảng cáo hiệu quả?
Đối mặt với thách thức
Theo Rob, để quảng cáo trên thiết bị di động hiệu quả, các nhà quảng cáo cần giải quyết hai vấn đề.

Thứ nhất là xác định định dạng quảng cáo phù hợp nhất với từng loại thiết bị di động cụ thể (VD: điện thoại di động và máy tính bảng cần các hình thức quảng cáo khác nhau). Và thứ hai, thiết bị di động phải tích hợp các công nghệ hỗ trợ phù hợp (VD: phải hỗ trợ Flash để xem được quảng cáo đa phương tiện).



Với vấn đề thứ hai – "chọn lựa công nghệ hỗ trợ phù hợp" – Rob phân chia các câu hỏi để chọn lựa công nghệ hỗ trợ thành ba nhóm nhằm đơn giản hóa vấn đề. Ba nhóm này bao gồm:
Nền tảng quảng cáo di động – Quảng cáo hiển thị trên di động, giống như mọi loại quảng cáo hiển thị khác, cũng yêu cầu dịch vụ, giá cả và tính năng phù hợp với mục tiêu kinh doanh. Nhưng ngay cả ở thị trường này cũng có rất nhiều "tay chơi" với đặc điểm khác nhau như AppNexus, AOL, Google, Millennial Media, OpenX, Nexage, AOL và PubMatic lại cùng cung cấp một sản phẩm.
Các đối tác truyền thông đa phương tiện và việc tích hợp công nghệ của họ - Đây là một phần quan trọng trong các quyết định liên quan đến lược quảng cáo di động. Đặc biệt, việc tích hợp video và các dịch vụ SDK mediation cần được xem xét khi tìm kiếm các ứng dụng hỗ trợ cho chiến lược nội dung trên di động.
Các đối tác thứ ba có tiềm năng kiếm được tiền – Cái tên đã nói lên tất cả. Bạn sẽ xem xét bên thứ ba thế nào khi xem xét chuyển hóa hàng tồn kho thành tiền?
Bắt tay vào việc

Riêng với vấn đề đầu tiên – "xác định định dạng quảng cáo thích hợp với thiết bị di động cụ thể" – giải pháp của Rob và các đồng nghiệp tại The 614 Group là phân tích các dữ liệu về quảng cáo di động để làm cơ sở so sánh và tìm ra định dạng quảng cáo tốt nhất cho từng loại thiết bị. Tuy nhiên, do thiếu dữ liệu, họ không thể tự mình thực hiện được điều đó. Do đó Rob kêu gọi các bạn bè đang làm trong lĩnh vực quảng cáo kỹ thuật số chia sẻ dữ liệu mà họ có để vượt qua thử thách này. Rob mời gọi: "Xin vui lòng cung cấp cho chúng tôi dữ liệu của bạn về quảng cáo di động và các ý tưởng quảng cáo – chúng tôi mong muốn tổng hợp chúng".

Để bắt đầu kinh doanh, bạn cần đặc biệt quan tâm đến bốn yếu tố (4S). Nếu ý tưởng kinh doanh của bạn đã bao hàm hết các yếu tố này, thì theo lý thuyết, bạn có thể sẵn sàng khởi nghiệp.

Các trường kinh doanh thường thích các từ viết tắt hoặc các công thức. Có thể bạn đã từng nghe đến công thức 4P trong marketing (đôi khi có thể là 7P) và 3C trong doanh nghiệp.

Bạn cũng từng ít nhất một lần sử dụng mô hình phân tích SWOT ( điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức)...

Mỗi công cụ đều có giá trị và lợi ích riêng mà bạn có thể áp dụng trong kinh doanh. Tuy nhiên, việc cố gắng áp dụng tất cả các công thức vào một công ty khởi nghiệp là tương đối phức tạp.

Để bắt đầu kinh doanh, bạn cần chú ý đến bốn yếu tố (4S). Nếu ý tưởng kinh doanh của bạn đã bao hàm hết các yếu tố này, thì theo lý thuyết, bạn có thể sẵn sàng khởi nghiệp.

1. Service (Dịch vụ)

Bạn đã xác định được giải pháp cho vấn đề hay vướng mắc của khách hàng chưa?

Giải pháp của bạn có cải thiện được cuộc sống của người tiêu dùng?

Khi sản xuất một sản phẩm hay cung cấp một dịch vụ, công ty của bạn cần đem lại giá trị cho khách hàng. Mặc dù sản phẩm mới liên tục được tạo ra, bạn không cần lãng phí thời gian để nghĩ về những điều đã có sẵn.

Hãy cân nhắc, có nhiều công ty tuyệt vời ra đời vì người sáng lập gặp phải một vấn đề mà chưa có giải pháp trên thị trường. Hoặc nếu giải pháp đã tồn tại, nó chưa đủ, không làm thỏa mãn hoặc quá đắt đỏ.

Tìm ra một vấn đề và biện pháp để giải quyết vấn đề đó.

2. System (Hệ thống)
Bạn có thể sản xuất và cung cấp sản phẩm hay dịch vụ mà mình phát triển?

Người khác có thể sản xuất và cung cấp nó cho bạn được không?

Hãy xác định rõ hệ thống mà bạn sẽ sử dụng để sản xuất và cung cấp sản phẩm hoặc dịch vụ của mình. Đôi khi, một ý tưởng quá mới hay quá sáng tạo khiến cho việc sản xuất trở nên đắt đỏ, bị hạn chế hoặc không tồn tại. Nhưng một công ty hoặc dịch vụ nào đó có thể giúp bạn sản xuất và đưa sản phẩm ra thị trường nhanh chóng và hiệu quả hơn.

Thêm vào đó, bạn phải quyết định các vấn đề kinh doanh quan trọng khác, từ cấu trúc công ty cho đến việc quản lý tài chính và hồ sơ giấy tờ. Dù thời gian đầu, bạn sẽ phải chịu trách nhiệm cho tất cả các công việc hành chính thì sau này bạn có thể giao chúng lại cho những người phù hợp.

Ưu tiên của bạn là đáp ứng và phát triển nhu cầu.

3. Strategy (Chiến lược)

Làm thế nào bạn tiếp cận khách hàng đầu tiên?

Bạn có biết làm cách nào để tìm ra khách hàng thứ một triệu?

Làm thế nào bạn có thể mở rộng quy mô công ty?

Bạn đã bao giờ cân nhắc về việc rời khỏi công ty nhưng vẫn thu được một khoản lợi nhuận?

Nhiều doanh nhân khởi nghiệp với những ý tưởng tuyệt vời, mở công ty và sau đó thất bại chỉ sau một thời gian ngắn khi hết tiền. Có thể họ thiếu khả năng mở rộng doanh nghiệp hay đã đa dạng hóa kinh doanh quá nhiều (hoặc quá ít).

Việc có tầm nhìn và cân nhắc chiến lược ngắn hạn cũng như dài hạn sẽ giúp đảm bảo rằng bạn đang dẫn dắt công ty theo hướng bền vững. Phát triển kế hoạch kinh doanh là một bước tuyệt vời để bắt đầu, nhưng ngày nay, sự linh hoạt là yếu tố quan trọng dẫn đến thành công.

Hãy cân nhắc về chiến lược giống như bạn đang chuẩn bị cho một chuyến đi dài trên biển. Rõ ràng, bạn cần phải có một bản đồ và một đích đến cùng những công cụ phù hợp. Ngoài ra, bạn cũng cần ý thức rằng mình có thể phải đi chệch hướng so với kế hoạch ban đầu trong trường hợp khẩn cấp.

Kế hoạch ban đầu luôn là thách thức với hầu hết các doanh nhân mới khởi nghiệp bởi họ có quá ít kinh nghiệm và không biết phải mong đợi điều gì. Hãy tìm đến những cố vấn hay nhà đồng sáng lập dày dạn kinh nghiệm. Họ có thể giúp đỡ bạn rất nhiều.

Luôn luôn có một tầm nhìn và một kế hoạch.

4. Spine (Chông gai)
Bạn có đủ can đảm để bắt đầu?

Yếu tố cuối cùng cho kế hoạch khởi nghiệp chính là tìm được dũng khí để bắt đầu. Từ kinh nghiệm của mình, tôi biết rằng nếu bạn thỏa mãn được cả 3 yếu tố trên, chẳng có điều gì khiến bạn lùi bước. Tất nhiên, những yếu tố này chưa đủ để bạn thành công bởi nhiều start-up hội tụ cả 4 yếu tố vẫn từng thất bại.

Có thể bạn sẽ không thành công trong lần kinh doanh đầu tiên. Tôi tin rằng các doanh nhất tốt nhất là những người tự tin. khiêm tốn và luôn nhớ những bài học giá trị từ những thất bại mà họ gặp phải trước đó.

Khởi nghiệp cũng giống như hẹn hò. Buổi hẹn đầu tiên thường ít thoải mái nhất, khi nhiều điều còn là ẩn số và tâm trạng bất an khiến bạn không yên. Nhưng những lần sau, mọi thứ có thể trở nên dễ dàng hơn.

Vốn đầu tư ít, sản phẩm tiêu thụ nhanh, đợt cao điểm, Việt Anh có thể bán được 30-40 chiếc mỗi ngày, với lợi nhuận 2-3 triệu đồng.
Nguyễn Việt Anh (sinh năm 1995) quê Hà Tĩnh đang là sinh viên năm hai Đại học Giao thông Vận tải (Hà Nội). Năm ngoái, lần đầu tiên phải thuê trọ, trải qua những đợt nắng nóng đỉnh điểm của Hà Nội, chàng trai trẻ miền Trung nảy ý tưởng làm một chiếc "điều hòa" để chống nóng.

Theo tác giả, cơ chế hoạt động của sản phẩm này rất đơn giản, khi dùng quạt thổi gió qua một thùng xốp chứa đá, mang theo hơi lạnh để làm mát không khí xung quanh. Nguyên lý này tương tự những chiếc quạt thổi đá vẫn bán trên thị trường, song vì sử dụng vật liệu rẻ và cách làm "sinh viên" nên giá thành có thể rẻ đi rất nhiều.

Tự tìm nguyên vật liệu, mày mò làm, khi hoàn thiện và sử dụng rất hiệu quả Việt Anh thử rao bán trên các diễn đàn online. Song không nhận được sự quan tâm của nhiều người.

Với giá bán 240.000-450.000 đồng, mỗi ngày chàng sinh viên trẻ tiêu thụ khoảng 40 chiếc.

Tháng 5 vừa qua, khi Hà Nội có đợt nắng nóng kéo dài, trên các trang mạng rộ trào lưu tự làm "điều hòa" chống nóng, nhận thấy cơ hội kiếm tiền đã đến, Việt Anh bỏ ra khoảng 2 triệu đồng để mua thùng xốp, quạt gió, ống nhựa, dây điện, đá lạnh và tái khởi động sản xuất.

Chỉ trong buổi chiều, vừa thiết kế, lắp đặt Việt Anh đã hoàn thiện được 3 chiếc. Ngoài việc cải tiến công suất quạt gió từ sản phẩm đầu tiên, và rút kinh nghiệm anh không quảng bá rộng sản phẩm mà chỉ quảng cáo sản phẩm quy mô nhỏ tại fanpage nội bộ của khu trọ. "Không ngờ "điều hòa" tự chế đã gây tò mò và nhận được phản hồi của nhiều người. Ngay chiều hôm đó mình cũng bán hết cả 3 chiếc", anh cho hay.

Tuy nhiên, trong khi khách hàng rất hào hứng với sản phẩm làm mát vừa rẻ tiền (giá 240.000-450.000 đồng tùy công suất), chống nóng hiệu quả thì bản thân tác giả khi sử dụng nhận thấy điểm hạn chế của sản phẩm là quạt công suất lớn, tuy mát hơn nhưng lại rất tốn đá. "Đối tượng khách hàng mà mình hướng đến phần lớn là sinh viên và người lao động thu nhập thấp. Rõ ràng đây là điều bất cập", anh nói.

Sau khi tìm hiểu các nguyên liệu hỗ trợ làm mát, Việt Anh phát hiện ra sản phẩm túi gel có khả năng giữ lạnh tốt. Anh mua thử về thay thế đá lạnh và khắc phục được nhược điểm của "điều hòa" đời đầu.

Anh cho biết ưu điểm của gel giữ lạnh là tan lâu gấp 6 lần đá (khoảng 2 giờ nếu so với thời gian 20 phút của một cục đá lạnh, ở nhiệt độ 37 độ C). Việt Anh quyết định chi tiền nhập một lô lớn túi gel, dùng làm sản phẩm tặng kèm.

Do công nghệ đơn giản, nguyên vật liệu dễ tìm, ra thị trường không lâu, "điều hòa" của Việt Anh phải cạnh tranh với một số sản phẩm tương tự. "Không ít cơ sở ngay cạnh xưởng bắt chước y nguyên sản phẩm, rao bán trên mạng với giá thấp hơn vài chục nghìn đồng", anh chia sẻ.

Dù vậy, với lợi thế là túi gel giữ lạnh và chính sách bán hàng ưu đãi, bảo hành, chàng sinh viên cho biết sức tiêu thụ sản phẩm vẫn khá tốt. Song song với việc hoàn thiện sản phẩm, tận dụng các kênh bán hàng trực tuyến anh nhanh chóng quảng bá sản phẩm rộng rãi đến người tiêu dùng, với sự hỗ trợ của ba người bạn. Nhờ đó, ​chỉ sau 2 tháng, đến nay, Việt Anh và cộng sự đã cung cấp ra thị trường trên 200 chiếc .

Trung bình mỗi ngày cơ sở của anh tiêu thụ 30-40 chiếc, lợi nhuận đạt 2-3 triệu đồng. Ngoài xoay vòng vốn nhanh, có thêm tiền trang trải việc học tập cho bản thân và cộng sự, phần khác anh cũng dành ra được khoản tiền đáng kể để tái đầu tư và marketing rộng rãi trên thị trường. "Do là mặt hàng thời vụ, nên thời điểm này mình đang tập trung marketing trên quy mô rộng", anh nói.

Nguyễn Việt Anh (giữa) và cộng sự.

Theo ông Nguyễn Ngọc Quý - Giảng viên Bộ môn Kỹ thuật Nhiệt (Đại học Công nghiệp Hà Nội), ý tưởng làm mát đơn giản từ nước đá không phải là mới. Vị này cho biết do sử dụng quạt thông gió nhỏ, lượng gió thổi không lớn, nên "điều hòa" tự chế chỉ có thể làm mát được một phần, không thể lan tỏa ra không gian rộng. Trên thực tế, mấy năm nay, quạt hơi nước của một số hãng sản xuất lớn cũng đang sử dụng cơ chế hoạt động tương tự.

Điều chuyên gia điện lạnh băn khoăn nhất chính là việc sử dụng gel làm mát. Đây là một trong những hóa chất có thông số nhiệt động cao hơn so với đá lạnh. Hiện, một số dòng tủ lạnh cao cấp sử dụng để phòng trường hợp mất điện thời gian ngắn. Vì thế, loại gel này khá đắt tiền.

"Tuy nhiên, muốn gel này làm mát thì phải cần để trong tủ lạnh trong vài tiếng.Với điều kiện sinh viên như hiện nay thì không phải ai cũng có sẵn tủ lạnh", chuyên gia bày tỏ. Dù vậy, ông vẫn đánh giá cao nhóm bạn trẻ ở tinh thần đam mê khoa học, dám mày mò để triển khai thương mại.

Chuyên gia marketing online Lê Nam thì cho rằng nhóm bạn đã khá thành công khi nắm bắt kịp thời nhu cầu làm mát của thị trường. Do đó, sản phẩm nhanh chóng nhận được sự hưởng ứng của cộng đồng, nhất là những người dân lao động thu nhập thấp.

Tuy nhiên, do có phần tự phát nên sản phẩm dễ dàng bị sao chép và cạnh tranh. Cho nên ngoài việc nghiên cứu cải tiến, theo ông Nam, nhóm tác giả nên đăng ký bản quyền sở hữu trí tuệ, thiết kế lại mẫu mã hiện đại hơn. Đặc biệt cần ghi nhận mọi ý kiến phản hồi của khách hàng để hoàn thiện sản phẩm.

Không cho rằng đây mặt hàng thời vụ, theo chuyên gia, trong tương lai nếu được phát triển hơn thì đây vẫn là sản phẩm đắt khách bởi đã định vị được đối tượng khách hàng riêng biệt.

Về quảng bá sản phẩm online, vị này cho rằng bán hàng trực tuyến lúc này vẫn kênh lan tỏa hiệu quả nhất. "Nếu sản phẩm không tốt thì quảng cáo online khá tốn kém. Tuy nhiên, do thiết bị làm mát có tính độc đáo lại đúng thời điểm nên Việt Anh đã có sự thành công bước đầu khi đưa sản phẩm tới người tiêu dùng mục tiêu", ông Nam nói.

Trên những ngọn đồi xanh tốt ở Thái Lan, nhiều phụ nữ như đang ngồi nghịch phân voi. Thực ra, họ đang thu lượm nguyên liệu để tạo ra loại cà phê đắt giá nhất thế giới.


Nhiều năm về trước, doanh nhân người Canada Blake Dinkin quyết định làm giàu với cà phê từ phân voi. “Khi tôi giải thích dự án với những người quản voi, tôi biết họ nghĩ tôi bị khùng”, nhà sáng lập 44 tuổi của nhãn hiệu cà phê Black Ivory nhớ lại những ngày đầu khởi nghiệp.

Cà phê nguyên liệu của ông là loại đã đi qua bộ máy tiêu hóa của loài voi, quá trình tạo nên loại thức uống hảo hạng mà những người sành cà phê yêu thích. Tuy nhiên, khi bắt tay thực hiện, cầy hương mới là loài động vật được Dinkin nhắm đến để sản xuất thứ cà phê Kopi luwak với quả được thu lượm từ chất thải của loài động vật châu Á này.

Tuy nhiên, trong bối cảnh nhu cầu tăng lên ở khu vực Đông Nam Á - đặc biệt là tại các thị trường Thái Lan, Indonesia và Việt Nam - chất lượng của cà phê Kopi luwak lại giảm sút. Không những thế, để tạo ra loại cà phê này, cầy hương lại bị nhốt trong chuồng và buộc phải ăn quả cà phê, việc đi ngược lại với mong muốn bảo tồn thiên nhiên của Dinkin.

Sau cầy hương, sư tử và hươu cao cổ cũng là những phương án lọc cà phê sinh học được tính đến. Nhưng loài sinh vật cuối cùng lọt vào mắt xanh của Dinkin là voi bởi ông phát hiện vào những thời điểm có hạn hán ở Đông Nam Á, quả cà phê đôi lúc cũng trở thành thức ăn của sinh vật to lớn này. Nghĩ là làm, Dinkin nhập đội với một tổ chức từ thiện chuyên bảo vệ loài voi. Nhưng hành trình cho voi lọc hạt cà phê không diễn ra thuận lợi như trông đợi.

“Tôi đã nghĩ chuyện sẽ chỉ đơn giản là hái cà phê, cho voi ăn và cuối chu trình sẽ có cà phê hảo hạng”. Tuy nhiên, theo lời kể của Dinkin, kết quả ban đầu thật “kinh hoàng” và thứ cà phê thu được không tài nào uống nổi. Quãng thời gian để Dinkin đạt được mục đích của mình mất 9 năm ròng rã.

Khi voi ăn quả cà phê, các enzim trong dạ dày voi sẽ từ từ xào xáo, ngâm tẩm quả cà phê cùng những loại thảo mộc và quả khác. Vị đắng trong hạt cà phê sẽ được axít triệt tiêu sau quá trình tiêu hóa kéo dài 17 tiếng đồng hồ. Sau khi cà phê ra khỏi “lò luyện sinh học”, người ta sẽ thu nhặt quả cà phê, đem rửa và sấy khô dưới ánh mặt trời.

Để tạo ra một kg cà phê, những con voi phải tiêu thụ khoảng 33 kg quả cà phê ngoài khẩu phần ăn thông thường gồm gạo và chuối. Tuy vậy, phần thưởng mà những người làm cà phê thu được hoàn toàn xứng đáng với công sức bỏ ra. Sự khan hiếm của loại đồ uống này là một thành tố quan trọng trong việc góp phần tạo nên thương hiệu cà phê voi.

Năm 2015 là mùa vụ cà phê voi Black Ivory thứ ba thành công. 150kg cà phê có mức giá 1.880 USD/kg (khoảng 37,8 triệu đồng), hay 13 USD (gần 300.000 đồng) một tách espresso. Dù giá của loại cà phê hảo hạng này không hề rẻ, nhưng theo xu hướng của những người sành uống cà phê, cà phê voi Thái Lan đủ sức hấp dẫn khiến thực khách phải săn lùng và vui lòng mở hầu bao chi trả.

Trong tương lai, Black Ivory sẽ sớm có mặt ở các cửa hàng sang trọng ở Paris (Pháp), Zurich (Thụy Sĩ), Copenhagen (Đan Mạch) và Moskva (Nga). Trước mắt, loại cà phê voi Thái Lan này đang được phục vụ độc quyền tại các khách sạn hoa lệ ở châu Á mà phần lớn là ở Thái Lan, Singapore và Hong Kong (Trung Quốc).

Dự án cà phê voi Thái ban đầu vấp phải sự phản đối của tổ chức từ thiện bảo vệ loài voi. Nhưng sau khi chứng minh được rằng loài voi không bị ảnh hưởng gì khi ăn cà phê do “chất caffeine không thoát ra ngoài hạt cà phê trừ khi chúng được đun sôi lên…”, dự án cà phê voi Thái đã có những bước tiến dài.

Dự án cũng trích 8% số tiền bán cà phê để chi trả cho các hoạt động thú y cũng như cơ sở vật chất của quỹ bảo vệ loài voi. Nhiều gia đình địa phương cũng nhờ dự án này mà có thêm việc làm, nhờ đó tăng thu nhập.

Author Name

Biểu mẫu liên hệ

Name

Email *

Message *

Powered by Blogger.